Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị, nên căn cứ theo mức lương tối thiểu vùng để khi tăng mức lương tối thiểu vùng thì mức giảm trừ cũng tự động tăng theo, đồng thời cần tăng mức giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc lên bằng 70% mức giảm trừ của người lao động Ngoài ra, người lao động cần có hồ sơ tín dụng tốt, lịch sử tín dụng rõ ràng, có hợp đồng lao động và thu nhập ổn định tại các doanh nghiệp. Bộ luật Lao động 2019 (áp dụng từ ngày 01/01/2021) có quy định về thử việc mà người lao động cần biết. Thử việc là một quá trình để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng lao động mà hầu hết các doanh nghiệp áp dụng trong quá trình tuyển dụng, nhằm đảm bảo sự Đối với mỗi người lao động và chủ doanh nghiệp, việc nắm vững kiến thức về TTNCN và quy định quyết toán thuế hàng năm là vô cùng cần thiết. - Vì Công ty trả thu nhập lớn hơn 2.000.000đ nên khi trả lương cho anh A, Kế toán phải khấu trừ tiền thuế TNCN tại nguồn Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc người sử dụng lao động trả đủ tiền lương cộng với khoản tiền lãi của số tiền lương chậm trả, trả thiếu cho người lao động tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt. 4. Căn cứ pháp lý - Bộ luật Lao động năm 2019; - Người lao động có đủ 15 năm làm nghề, công việc độc hại, nặng nhọc, nguy hiểm hoặc đặc biệt độc hại, nặng nhọc, nguy hiểm hoặc thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0.7 trở lên được nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn. Cụ thể nam phải đủ 55 tuổi 06 tháng, nữ phải đủ 50 tuổi 08 tháng. Mức cho vay tối đa bằng mức lương tối thiểu vùng đối với số NLĐ theo thời gian trả lương ngừng việc thực tế tối đa 3 tháng, thời hạn vay vốn dưới 12 tháng. Ngoài ra, NSDLĐ phải tạm dừng hoạt động do yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng chống L9uOxIA. Tôi bị tai nạn lao động trên đường đi làm về và phải ở nhà điều trị 1,5 tháng. Trong thời gian điều trị nghe nói tôi sẽ được hưởng lương tại đơn vị có đúng không? Ngoài ra, tôi muốn biết các quy định về trợ cấp tai nạn lao động. Tư vấn giúp tôi vấn đề này. Xin cảm ơn. Người sử dụng lao động có trách nhiệm gì đối với người lao động bị tai nạn lao động? Trợ cấp tai nạn lao động quy định thế nào? Có phải trả lương cho người lao động trong thời gian điều trị tai nạn lao động hay không? Người sử dụng lao động có trách nhiệm gì đối với người lao động bị tai nạn lao động?Căn cứ theo quy định tại Điều 39 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015, cụ thể về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, như sauNgười sử dụng lao động có trách nhiệm đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau- Kịp thời sơ cứu, cấp cứu cho người lao động bị tai nạn lao động và phải tạm ứng chi phí sơ cứu, cấp cứu và điều trị cho người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp;- Thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp như sau+ Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế;+ Trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với những trường hợp kết luận suy giảm khả năng lao động dưới 5% do người sử dụng lao động giới thiệu người lao động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y khoa;+ Thanh toán toàn bộ chi phí y tế đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế;- Trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị, phục hồi chức năng lao động;- Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động mà không hoàn toàn do lỗi của chính người này gây ra và cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp với mức như sau+ Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;+ Ít nhất 30 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;- Trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động mà do lỗi của chính họ gây ra một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại khoản 4 Điều này với mức suy giảm khả năng lao động tương ứng;- Giới thiệu để người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định y khoa xác định mức độ suy giảm khả năng lao động, được điều trị, điều dưỡng, phục hồi chức năng lao động theo quy định pháp luật;- Thực hiện bồi thường, trợ cấp đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả năng lao động hoặc kể từ ngày Đoàn điều tra tai nạn lao động công bố biên bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ tai nạn lao động chết người;- Sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sau khi điều trị, phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc;- Lập hồ sơ hưởng chế độ về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Mục 3 Chương này;- Tiền lương để làm cơ sở thực hiện các chế độ bồi thường, trợ cấp, tiền lương trả cho người lao động nghỉ việc do bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều này là tiền lương bao gồm mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác thực hiện theo quy định của pháp luật về lao Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết các khoản 3, 4 và 5 Điều sử dụng lao động có trách nhiệm gì đối với người lao động bị tai nạn lao động?Trợ cấp tai nạn lao động quy định thế nào?Tại Điều 4 Thông tư 28/2021/TT-BLĐTBXH quy định về trợ cấp tai nạn lao động như sau- Người lao động bị tai nạn lao động làm suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên hoặc thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động được hưởng chế độ trợ cấp tai nạn lao động, nếu nguyên nhân xảy ra tai nạn lao động hoàn toàn do lỗi của chính người lao động bị nạn gây ra căn cứ theo kết luận của biên bản điều tra tai nạn lao động.- Nguyên tắc trợ cấp Tai nạn lao động xảy ra lần nào thực hiện trợ cấp lần đó, không cộng dồn các vụ tai nạn đã xảy ra từ các lần trước Mức trợ cấp+ Ít nhất 12 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động;+ Ít nhất bằng 0,6 tháng tiền lương đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10%; nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80% thì tính theo công thức dưới đây hoặc tra theo bảng tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư nàyTtc = Tbt x 0,4Trong đó- Ttc Mức trợ cấp cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ trên 10% trở lên đơn vị tính tháng tiền lương;- Tbt Mức bồi thường cho người bị suy giảm khả năng lao động từ trên 10% trở lên đơn vị tính tháng tiền lương.Ví dụ 2- Ông B bị tai nạn lao động lần thứ nhất do ông B đã vi phạm quy định về an toàn lao động, không do lỗi của ai khác. Giám định sức khỏe xác định mức suy giảm khả năng lao động của ông B là 15% do vụ tai nạn này. Mức trợ cấp lần thứ nhất cho ông B là Ttc = Tbt x 0,4 = 3,5 x 0,4 =1,4 tháng tiền lương.- Lần tiếp theo ông B bị tai nạn khi đi từ nơi làm việc về nơi ở được điều tra và xác định là thuộc trường hợp được trợ cấp theo quy định tại khoản 1 Điều này. Giám định sức khỏe xác định mức suy giảm khả năng lao động do lần tai nạn này là 20%. Mức trợ cấp lần thứ hai cho ông B làTtc = Tbt x 0,4 = 5,5 x 0,4 = 2,2 tháng tiền lương.Có phải trả lương cho người lao động trong thời gian điều trị tai nạn lao động hay không?Tại Công văn 2704/LĐTBXH-ATLĐ năm 2019 thanh toán chi phí y tế và tiền lương trong tai nạn giao thông do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hướng dẫn như sauĐể có cơ sở giải quyết chế độ tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc đến nơi ở cần căn cứ vào biên bản điều tra tai nạn lao động. Căn cứ vào biên bản điều tra tai nạn nêu trên, trường hợp xác định người lao động bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc đến nơi ở theo tuyến đường và thời gian hợp lý, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn thì người sử dụng lao động trợ cấp cho người lao động theo quy định tại Khoản 2 Điều 39 Luật An toàn vệ sinh lao động. Luật An toàn, vệ sinh lao động không quy định bắt buộc người sử dụng lao động phải chi trả chi phí y tế, tiền lương trong thời gian điều trị tại trường hợp tai nạn nêu vậy, trong trường hợp này không bắt buộc người sử dụng lao động phải trả tiền lương cho người lao động trong những ngày nghỉ. Cho tôi hỏi, người sử dụng lao động chậm thực hiện việc trả lương cho người lao động thì có bị xử phạt hành chính không? Công ty tôi đã trả lương trễ 10 ngày với lý do là công ty đang bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Trong trường hợp này, làm thế nào để có thể bảo vệ quyền lợi người lao động? Nguyên tắc của việc trả lương cho người lao động Quy định của pháp luật về kỳ hạn trả lương cho người lao động Xử lý vi phạm hành chính đối với việc chậm trả lương cho người lao động Nguyên tắc của việc trả lương cho người lao độngĐiều 94 Bộ luật Lao động 2019 quy định về nguyên tắc khi trả lương như sau- Người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp Người sử dụng lao động không được hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động; không được ép buộc người lao động chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ đó, nguyên tắc tiên quyết của việc trả lương là phải " đúng hạn và đầy đủ", do đó việc chậm trả lương là một trong những hành vi vi phạm nguyên tắc lương cho người lao độngQuy định của pháp luật về kỳ hạn trả lương cho người lao độngĐiều 97 Bộ luật Lao động 2019 quy định về kỳ hạn trả lương như sâu- Người lao động hưởng lương theo giờ, ngày, tuần thì được trả lương sau giờ, ngày, tuần làm việc hoặc được trả gộp do hai bên thỏa thuận nhưng không quá 15 ngày phải được trả gộp một Người lao động hưởng lương theo tháng được trả một tháng một lần hoặc nửa tháng một lần. Thời điểm trả lương do hai bên thỏa thuận và phải được ấn định vào một thời điểm có tính chu Người lao động hưởng lương theo sản phẩm, theo khoán được trả lương theo thỏa thuận của hai bên; nếu công việc phải làm trong nhiều tháng thì hằng tháng được tạm ứng tiền lương theo khối lượng công việc đã làm trong Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày; nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả vậy, chỉ khi vì lý do bất khả kháng thì người sử dụng lao động mới có thể trả lương trễ so với thời hạn thỏa thuận, tuy nhiên không được chậm quá 30 ngày, nếu không sẽ bị phạt vi phạm và phải đền bù tổn thất cho người lao 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về cách xác định "sự kiện bất khả kháng" như sau"1. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép."Như vậy, nếu đã dùng hết mọi biện pháp nhưng công ty của bạn đã không thể khắc phục được ảnh hưởng từ dịch bệnh thì có thể chậm trả lương cho người lao động. Tuy nhiên nếu chậm từ 15 ngày trở đi, bạn phải yêu cầu công ty đề bù một khoản tiền ít nhất bằng tiền lãi trả chậm khi bạn gửi khoản tiền lương đó vào ngân lý vi phạm hành chính đối với việc chậm trả lương cho người lao độngTheo khoản 2 Điều 17 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định về mức phạt tiền đối với trường hợp trả lương không đúng hạn theo quy định của pháp luật như saua Từ đồng đến đồng đối với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;b Từ đồng đến đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;c Từ đồng đến đồng đối với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;d Từ đồng đến đồng đối với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;đ Từ đồng đến đồng đối với vi phạm từ 301 người lao động trở ra, người sử dụng lao động còn phải thực hiện biện pháp khắc phục quy định tại khoản 5 Điều 17 Nghị định 12/2022/NĐ-CP như sau"a Buộc người sử dụng lao động trả đủ tiền lương cộng với khoản tiền lãi của số tiền lương chậm trả, trả thiếu cho người lao động tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều này;"Đây là mức xử phạt đối với cá nhân sử dụng lao động vi phạm. Theo khoản 3 Điều 6 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, tổ chức sử dụng lao động sẽ bị phạt tiền gấp 02 lần so với khoản tiền phạt nêu trên. Trần Nam Thành huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai hỏi "Căn cứ khoản 2 điều 39 Luật An toàn - Vệ sinh lao động, người lao động NLĐ bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở, tại địa điểm và thời gian hợp lý thì được trợ cấp tai nạn lao động từ người sử dụng lao động NSDLĐ. Trong trường hợp này, có bắt buộc NSDLĐ chi trả chi phí y tế, tiền lương trong thời gian điều trị cho NLĐ hay không?".Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trả lời Căn cứ biên bản điều tra tai nạn, trường hợp xác định NLĐ bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc đến nơi ở theo tuyến đường và thời gian hợp lý, nếu do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn thì NSDLĐ trợ cấp cho NLĐ theo quy định tại khoản 2 điều 39 Luật An toàn - Vệ sinh lao động, không quy định bắt buộc NSDLĐ phải chi trả chi phí y tế, tiền lương trong thời gian điều trị. Khuyến khích những thỏa thuận có lợi hơn cho NLĐ theo quy định tại khoản 1 điều 4 Bộ Luật Lao động thuận lợi, đề nghị ông liên hệ Sở Lao động - Thương binh và Xã hội của địa phương để được hướng dẫn chi tiết và trợ giúp pháp lý. Bộ trưởng Đào Ngọc Dung khẳng định nếu giữ thời gian đóng BHXH 20 năm thì người lao động không thể chờ đợi, cần giảm xuống 15 hoặc 10 năm. Sáng 6/6, Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung - thành viên Chính phủ đầu tiên đăng đàn trả lời chất vấn trước Quốc hội. Trong hơn ba tiếng, ông Dung đã thẳng thắn giải đáp nhiều câu hỏi của đại biểu kèm theo số liệu, dẫn chứng cụ đề rút bảo hiểm xã hội BHXH một lần nữa được đại biểu Quốc hội đặc biệt quan tâm. Bà Trần Thị Diệu Thúy Chủ tịch Liên đoàn Lao động TP HCM nêu thực trạng làn sóng rút BHXH một lần trong công nhân lao động thời gian qua không giảm mà còn có dấu hiệu gia tăng, đặc biệt tăng cao khi có thông tin sắp sửa luật. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng này, trong đó lớn nhất là công nhân bất an với sự ổn định của chính sách BHXH."Công nhân coi BHXH như của để dành nhưng lo sợ chính sách mới làm hạn chế quyền tự quyết với món tiền của mình và lương hưu sau này không đủ sống. Giải pháp xử lý vấn đề này ra sao?", bà Thúy chất vấn. Đại biểu Trần Thị Diệu Thúy. Ảnh Media Quốc hội Ông Dung cho biết trước năm 2019, số lao động rút BHXH bình quân mỗi năm nay đã lên tới Người rời đi tương đương với số tham gia trở lại khiến nguy cơ hiện hữu là không đảm bảo an sinh cho người già và hệ thống không bền trưởng nêu bốn lý do khiến lao động chọn rời bỏ hưu trí. Thứ nhất, vì thu nhập thấp và đời sống khó khăn. Phần lớn người rút BHXH là công nhân, rất ít công chức viên chức. Khu vực phía Nam chiếm tới 72% trong khi miền Bắc và Trung rất là không có nước nào cho rút BHXH một lần dễ như Việt Nam. Ông nhắc lại lịch sử khi sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Điều 60 hạn chế rút BHXH một lần nhưng công nhân phản đối. Quốc hội sau đó ban hành Nghị quyết 93 cho phép lao động được hưởng nếu có nhu cầu."Tôi đã mời cả chuyên gia quốc tế về bày mưu tính kế để hạn chế tình trạng này. Vị này nói Việt Nam rất hào phóng trong việc cho hưởng lương hưu tối đa 75% lẫn cho rút BHXH một lần, giờ sửa rất khó. Quốc tế chỉ cho rút khi lao động mắc bệnh nan y và định cư nước ngoài. Luật đã cho rút thì giờ khó mà cấm được", ông là quyền lợi khi rút BHXH một lần rất cao. Lao động chỉ đóng 8% nhưng được hưởng toàn bộ phần đóng của doanh nghiệp và nhà nước. Có nhiều trường hợp dù chưa muốn rút nhưng thấy lợi ích nhiều nên rút hết. Nhưng rời đi rồi không có nghĩa là không trở lại, theo ông Dung, 1/3 trong số lao động từng rút BHXH sau đó tiếp tục tham là việc tổ chức tuyên truyền chưa tốt. Ông lấy ví dụ Hà Nội tuyên truyền cứ 10 người đi rút thì thuyết phục được 6 người trở lại; TP HCM, Đồng Nai cũng có một phần không rút nữa sau khi được tuyên trưởng cho biết, Luật BHXH đang sửa đổi theo hướng không hạn chế mà tăng quyền lợi cho người lao động, phương án thế nào thì Quốc hội sẽ bàn kỹ trong kỳ họp hài lòng với phần trả lời của Bộ trưởng, đại biểu Trần Thị Diệu Thúy tranh luận, nếu lao động rút bảo hiểm do tuyên truyền thì các đơn vị sẽ tiếp thu để điều chỉnh. Nhưng lao động ở TP HCM mong muốn chính sách BHXH phải nhất quán, ổn định lâu dài. "10 năm sửa luật lại có phương án về BHXH khác đi, dẫn đến sự không an tâm của người lao động về đóng BHXH nên họ phải tính toán với việc rút một lần. Bộ trưởng nói sửa luật theo hướng tăng quyền lợi, vậy đó là quyền lợi gì?", bà chất lại, ông Dung nói trong các hạn chế thì có việc chưa quan tâm đầy đủ tuyên truyền với người lao động, vì nếu làm tốt thì chắc chắn thời gian qua tình trạng rút BHXH một lần không như vậy. Do đó, các chính sách phải mang tính tổng thể."Người lao động nếu cứ đóng 20 năm thì họ không chờ đợi được đâu, tôi xin nói thật như thế", ông Dung nói, phân tích rằng với ngành thâm dụng lao động, kéo dài đóng bảo hiểm xã hội 20 năm mà với nam đủ 62 tuổi mới nghỉ hưu thì rất khó. Ông muốn giảm số năm đóng bảo hiểm xã hội xuống 15 năm hoặc còn 10 năm, nhưng nguyên tắc là đóng ít thì sẽ hưởng trưởng cho rằng dù bàn nhiều giải pháp, tình trạng rút bảo hiểm một lần rất khó dừng lại. Bộ trưởng Đào Ngọc Dung trả lời chất vấn. Ảnh Phạm Thắng Bà Nguyễn Thị Thanh Cầm Thường trực Ủy ban Xã hội đề nghị Bộ trưởng cho biết Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi sẽ khắc phục thế nào để rút ngắn tỷ lệ hưởng lương hưu giữa nam và nữ? Giải pháp căn cơ hạn chế rút BHXH một lần?Ông Dung cho biết dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội mới lấy ý kiến xong, đang hoàn thiện để sớm trình cấp có thẩm quyền. Sau hai tháng, dự thảo tiếp nhận hơn 380 ý kiến của các đơn vị, cá nhân. Có người hỏi vì sao không tiến tới tiệm cận tuổi hưu với tuổi nghề, tuy nhiên tuổi nghề khác tuổi hưu. Ông ví dụ tuổi nghề xiếc chỉ 30 nhưng tuổi hưu tới 60 thì phải đào tạo chuyển đổi nghề. "Chính sách hỗ trợ lao động, đặc biệt là công nhân nữ khi họ còn đi làm quan trọng hơn là chính sách lương hưu", ông Dung hộ kinh doanh bị thu sai BHXH sẽ được đảm bảo quyền lợiĐại biểu Ma Thị Thúy Phó đoàn Tuyên Quang cho rằng việc chậm đóng BHXH gây hệ lụy lớn, đặc biệt hơn lao động bị treo quyền lợi, vậy nguyên nhân tình trạng trên và biện pháp khắc phục là gì? "Dư luận rất bức xúc trước việc chủ hộ bị thu sai BHXH bắt buộc trong thời gian dài. Quan điểm Bộ trưởng thế nào và sẽ xử lý ra sao?", bà Thúy chất vấn. Đại biểu Ma Thị Thúy Phó đoàn Tuyên Quang. Ảnh Media Quốc hội Ông Dung khẳng định cơ quan công quyền làm sai thì phải xin lỗi và xử lý theo quy định. Hiện có ba hướng xử lý Chuyển chủ hộ sang diện đóng bắt buộc; chuyển sang BHXH tự nguyện nếu người đóng đồng ý, không đồng ý thì phải thoái thu. Với quan điểm đảm bảo quyền lợi của chủ hộ, ông Dung nói nên sớm đưa họ vào diện đóng bắt hướng xử lý quyền lợi cho hơn lao động bị trốn đóng BHXH, Bộ trưởng cho hay đã hướng dẫn Bảo hiểm xã hội Việt nam giải quyết theo hướng thu đến đâu tính đến đó. Với những người chuyển doanh nghiệp thì tạo điều kiện chốt sổ để tiếp tục đóng pháp căn cơ là phải sửa Luật Bảo hiểm xã hội sớm trình Quốc hội vào kỳ họp tháng 10 cuối năm 2023. Dự thảo đã bổ sung làm rõ hành vi chậm, trốn đóng vì trốn đóng trước đây được đưa vào Bộ luật Hình sự nhưng chưa xác định rõ. Vì vậy, TP HCM có 84 đơn thư, hồ sơ khởi kiện nhưng chưa xử lý được vụ nào. "Cần áp dụng chế tài mạnh hơn với hành vi này như ngừng hóa đơn, cấm xuất cảnh bởi các biện pháp như hiện nay không có hiệu quả", Bộ trưởng quan đến vấn đề này, đại biểu Huỳnh Thị Phúc Phó đoàn Bà Rịa - Vũng Tàu cho rằng việc thu bảo hiểm bắt buộc sai đối với chủ hộ kinh doanh cho thấy cơ quan bảo hiểm đã thực hiện không đúng quy định pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích người dân. "Việc thu sai đối tượng trong thời gian quá dài, có người đóng 20 năm. Vậy có tiêu cực trong thu BHXH không? Bộ trưởng cho biết trách nhiệm thuộc cơ quan nào, hướng xử lý sai phạm", đại biểu đặt câu hỏi. Bộ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung trả lời chất vấn. Ảnh Phạm Thắng Ông Dung khẳng định việc thu sai BHXH bắt buộc là sai về chủ trương. "Tôi đã báo cáo rất rõ là trách nhiệm thuộc về BHXH Việt Nam và đặc biệt BHXH các địa phương", ông nói, cho biết Bộ đã làm việc với BHXH VIệt Nam đề nghị chấn chỉnh. Thời gian qua, do còn vướng mắc, các trường hợp thu sai chưa được giải quyết. Các địa phương đã xử lý linh hoạt với chủ hộ kinh đoàn kiểm tra của Ban Kinh tế Trung ương cùng Bộ đến các địa phương, có nơi báo cáo 62 trường hợp, nhưng khi kiểm tra thực tế chỉ còn 8 trường hợp. Như vậy đã giải quyết về căn bản."Chúng tôi chưa phát hiện dấu hiệu trục lợi, nhưng sai là có", Bộ trưởng cho hay. Bộ Lao động Thương binh Xã hội dự kiến khi xây dựng pháp luật sẽ đưa nhóm chủ hộ kinh doanh vào diện đóng bảo hiểm bắt buộc. Nếu được Quốc hội cho phép, Chính phủ sẽ thực hiện biện pháp cần thiết để đảm bảo quyền lợi cho người lao động, trong đó có cộng nối thời gian đóng bảo hiểm nếu người dân có nhu cầu chuyển sang bảo hiểm bắt buộc hoặc tự đưa lao động ra nước ngoài làm việc bằng mọi giáVấn đề đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc cũng được nhiều đại biểu quan tâm. Bà Nguyễn Hồng Hạnh đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp nâng cao chất lượng lao động của người Việt Nam ở nước ngoài?Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết đưa người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài là giải pháp tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, tạo điều kiện cho thanh niên tiếp cận công nghệ, tác phong làm việc mới. Năm 2022, Việt Nam có lao động đi nước ngoài, tập trung ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia. Trong đó, ba nước trả thu nhập cao như Đức Ero, Hàn Quốc USD, Nhật Bản USD, còn các nước khác chỉ 600-700 nước đều đánh giá lao động Việt Nam có ý thức, kỹ năng, hiệu suất công việc tốt, nhưng ngoại ngữ còn kém, tổ chức kỷ luật của một bộ phận không tốt trốn ở lại, đánh nhau, vi phạm pháp luật. "Không đưa lao động đi nước ngoài làm việc bằng mọi giá. Nếu không có môi trường tốt, thu nhập cao thì không đưa. Bộ sẽ xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý lao động đi và về. Người lừa đảo lao động đi nước ngoài sẽ bị xử lý", ông Dung nói. Đại biểu Trần Quang Minh. Ảnh Media Quốc hội Tuy nhiên, đại biểu Trần Quang Minh nói việc lao động Việt Nam bỏ trốn khi làm việc tại nước ngoài ảnh hưởng tới hình ảnh quốc gia và nhiều lao động khác có ý định xuất khẩu. Dù đã có chế tài, tình trạng này vẫn diễn ra ở một số nước là thị trường xuất khẩu lao động sôi động. "Theo Bộ trưởng, cần có giải pháp gì?", ông Minh trưởng Dung cho biết lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài rồi ở lại, không về nước theo đúng thời gian hiện nay không bức xúc bằng năm 2017. Thời điểm đó, ông cũng trả lời chất vấn Quốc hội, đã báo cáo gần 52,5% lao động Việt Nam bỏ trốn tại Hàn Quốc khiến nước này dừng nhận lao động Việt đó, Việt Nam kiên trì thực hiện các giải pháp, phía nước bạn xử lý hình sự những người trốn ở lại. Đến nay, theo yêu cầu của Hàn Quốc, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội dừng xuất khẩu lao động ở 18 huyện của 9 tỉnh có tỷ lệ lao động trốn nhiều, dó đó chỉ còn 24,6% lao động hết hợp đồng không về nay, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung có thêm 20 phút trả lời những vấn đề đại biểu quan tâm. Xem diễn biến chính

phải trả người lao động