* Nét khác biệt trong nghệ thuật khắc họa ở nhân vật Mị và A Phủ: Mị được khắc họa từ một cái nhìn bên trong, nhằm giúp ta khám phá và phát hiện vẻ đẹp của nhân vật ở tiềm lực sống nội tâm. Còn nhân vật A Phủ được tác giả nhìn từ bên ngoài, tạo nên nét nổi bật về tính cách và hành động để thấy rõ được sự gan góc, táo bạo và mạnh mẽ từ nhân vật. "Hãy chỉ ra điểm giống và khác nhau giữa nhân vật Thị và Mị, giữa A Phủ và Tràng trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt". Đỗ Xuân Trường. Trả lời 7 năm trước. 1, Điểm giống nhau giữa hai tác phẩm: ️Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện Từ thương người đến thương thân và tình thương ấy cứ lớn dần, lớn dần để rồi dẫn Mị đến với ý thức ngày càng rõ rệt hơn về một sự thật thật tàn bạo và vô lí, bất công .Ý thức đó đã thôi thúc Mị đứng dậy cắt dây trói cho A Phủ và bất giác chạy theo anh, cùng trốn khỏi Hồng Ngài ->>. Đề bài: Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài Bài làm: Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã có rất nhiều những tác phẩm có giá trị, tiêu biểu là truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" tác phẩm đã rất thành công trong việc khắc họa + cơ hội đầu, Mị lạnh nhạt với A Phủ + nhìn thấy giọt nước đôi mắt của A Phủ: yêu đương A phủ và thương cho mình, thấy nhà Pá Tra sao ác thế + Mị nảy ra ý định cắt dây dỡ trói cho A Phủ, tuy nhiên rồi Mị sợ + Mị ra quyết định cắt dây cởi trói mang đến A bao phủ và hai tín đồ chạy trốn khỏi Hồng Ngài 3. Kết bài - Khái quát tháo về nhân đồ Mị Lòng thương người đã đưa Mị đến hành động quyết liệt: cởi trói cho A Phủ". Đây chính là quá trình tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm. Từ sau đêm tình mùa xuân nghiệt ngã ấy, Mị lại quay trở lại cuộc sống cam chịu vô hồn, vô cảm và dường như mối WcYLs8. Home / Văn mẫu / Lớp 12 / Sự giống và khác nhau về số phận và tính cách của Mị và A Phủ 01/04/2015 Lớp 12, Văn mẫu 6,640 Lượt xem– Giống nhau Mỵ và A Phủ đều là nạn nhân của chế độ thực dân phong kiến bấy giờ và cả hai đều có khát vọng về đời sống tự do. Sức sống của Mỵ và A Phủ không bị hoàn cảnh đen tối tiêu diệt mà vẫn tiềm ẩn và cuối cùng bùng lên mãnh liệt.– Khác nhau Mị bị giam cầm trong nhà Thống lí Pá Tra rất lâu nên Mị có tính cách cam phận, chịu đựng. Còn A Phủ mồ côi từ nhỏ, sống tự lập từ nhỏ, do đó, sự phản kháng của A Phủ mãnh liệt hơn, táo bạo luận cho bài viết Nhận xét Có thể bạn quan tâmTrình bày những nét chính về cuộc đời và nghệ thuật của Tô HoàiEm hãy trình bày những nét chính về cuộc đời và nghệ thuật của Tô … Tài liệu hướng dẫn phân tích nhân vật A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm gợi ý cách làm bài, dàn ý chi tiết cùng một số bài văn mẫu hay tham khảo phân tích hình ảnh nhân vật A Phủ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô tham khảo ngay...I. Hướng dẫn phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A PhủTrước khi làm bất kì một đề văn nào nói chung và đề văn phân tích nhân vật A Phủ nói riêng, ta cần phải đọc kỹ đề bài, phân tích, mổ xẻ những yêu cầu về nội dung mà đề bài đặt ra cũng như xác định phương pháp làm bài cho hợp Phân tích yêu cầu đề bài- Yêu cầu về nội dung phân tích vẻ đẹp, tính cách, số phận của nhân vật A Phạm vi tư liệu, dẫn chứng từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong văn bản truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, đặc biệt là những chi tiết liên quan đến nhân vật A Phương pháp lập luận chính phân Tóm tắt nhân vật A Phủ* Số phận đặc biệt- Mồ côi cha mẹ, sống một mình, không người thân thích từ Vượt qua cơ cực thử thách, trở thành chàng trai Mông khỏe mạnh tháo vát, thông minh, nhiều cô gái trong làng mơ ước được lấy A Phủ làm chồng- Nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục cưới xin ngặt nghèo* Cá tính đặc biệt- Mạnh mẽ gan góc từ bé+ Không sợ đối mặt với bọn con quan, dám trừng trị chúng khi chúng quậy phá cuộc vui xuân của đám bạn mình+ A Phủ nắm lấy "cái vòng bạc có tua chỉ xanh của A Sử" kéo dập đầu nó xuống, xé áo nó ra mà đánh+ Bị bắt, bị hành hạ nhưng vẫn không hề lo sợ- Khi trở thành người làm công gạt nợ, A Phủ vẫn là con người tự do, không biết sợ cường quyền, kẻ ác* Nạn nhân của giai cấp thống trị phong kiến miền núi- Vì đánh con quan mà bị phạt vạ rất nặng, trở thành nô lệ trong nhà thống Lí- Chỉ vì lỡ để hổ ăn mất một con bò mà bị cha con thống Lí bắt trói, hành hạ dã man, có thể phải trả giá bằng cả tính mạng.=> Nhân vật A Phủ vừa là bằng chứng sống về tội ác của giai cấp thống trị miền núi Tây Bắc vừa là một hình ảnh đẹp , tiêu biểu của người dân lao động ở một vùng núi cao nước Luận điểm phân tích nhân vật A Phủ- Luận điểm 1 Hoàn cảnh, xuất thân của A Phủ- Luận điểm 2 Phẩm chất, tính cách tốt đẹp của A Phủ- Luận điểm 3 Số phận bất hạnh- Luận điểm 4 Sức phản kháng mãnh liệt ở A Luận điểm 5 Giác ngộ và đi theo lý tưởng cách Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật A Phủ>>> Tổng hợp các mẫu sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ ngắn gọn và dễ hiểu nhất giúp em ghi nhớ nội dung bài tốt Dàn ý chi tiết phân tích nhân vật A Phủ1. Mở bài phân tích A Phủ- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm+ Tô Hoài 1920 - 2014 là một trong những tác gia lớn nhất của thế kỉ 20, thuộc thế hệ vàng của văn chương hiện đại cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Huy Cận.+ Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của Tô Hoài, thể hiện sự cảm thương cho số phận những người lao động nghèo bất hạnh, bị tước đoạt đi quyền sống, bị hành hạ cả thể xác và tinh Giới thiệu nhân vật A Phủ Nhân vật A Phủ được miêu tả sóng đôi với Mị, góp thêm một thân phận người lao động nghèo vào bức tranh hiện thực của tác Thân bài phân tích A Phủ* Luận điểm 1 Hoàn cảnh, xuất thân của A Phủ- Mồ côi cả cha lẫn mẹ vì nhà bị chết dịch, A Phủ bị bắt đem bán đổi lấy thóc của người Mười bốn tuổi thôi nhưng A Phủ đã rất gan bướng, anh đã trốn thoát lên núi rồi lưu lạc đến Hồng Giữa núi rừng, A Phủ dần lớn lên và trở thành một chàng trai khỏe mạnh "chạy nhanh như ngựa", lao động giỏi, "săn bò tót rất thạo" -> Trở thành niềm mơ ước của bao cô gái "Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà".- Suốt đời làm thuê làm mướn, A Phủ nghèo đến nỗi không thể nào lấy được vợ, cũng không có nổi cả cái vòng bạc để đi chơi ngày Tết như bao chàng trai H'Mông Hoàn cảnh khắc nghiệt đã góp phần tạo nên ở A Phủ tính cách gan góc, táo bạo và một sức sống mạnh mẽ.=> Hình ảnh A Phủ khiến người đọc nhớ tới những nhân vật chàng Mồ Côi, chàng Khó tràn đầy sức lực, lao động giỏi và giàu nghĩa khí trong văn học dân A Phủ phải làm người ở gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra vì không có tiền trả.=> A Phủ - chàng trai đáng thương, lai lịch cụ thể nhưng mang dáng dấp của nhiều đồng bào dân tộc chịu nhiều khó khăn do đói rét, bệnh tật, nghèo khổ.* Luận điểm 2 Phẩm chất, tính cách tốt đẹp của A Phủ- Khao khát tự do, mạo hiểm+ “Không chịu ở dưới cánh đồng thấp”+ “Trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài”- Không chùn bước trước cường quyền, bạo chúa Biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây Một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh như ngựa”, "nhai đứt võng mây"- Yêu lao động, có trách nhiệm và giỏi trong lao động, không quản ngại những công việc nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm+ Biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc+ Cày giỏi, đi săn bò tót rất bạo+ Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng+ Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng+ Vô ý để mất một con bò -> xin đi giết hổ- Niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi “không có ruộng, không có bạc, không thể lấy nổi vợ” nhưng vẫn đem sáo, khèn, đem con quay, quả pao, quả yến đi tìm người yêu trong những đêm tình mùa Một chàng thanh niên có tinh thần dũng cảm, gan góc săn bò tót, bẫy hổ...- A Phủ là một con người nhân ái, tinh tế+ Hiểu và cảm thông cho hoàn cảnh của Mị+ Đưa Mị cùng chạy trốn khỏi nhà thống lí-> A Phủ mang nhiều phẩm chất đáng quý của con người lao động, giàu lòng nhân ái và luôn hướng về tương lai tốt đẹp.=> A Phủ chính là hiện thân cho những con người lao động, nhất là những con người lao động nghèo khổ với phẩm chất tốt đẹp.=> Qua đó, tác giả muốn thể hiện niềm tin vào vẻ đẹp của những con người lao động nghèo.* Luận điểm 3 Số phận bất hạnh của A Phủ- A Phủ bỗng nhiên trở thành người ở gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra do dám đánh A Sử vì bất bình trước hành động ngang ngược của hắn. -> Không sợ cường quyền, sẵn sàng trừng trị kẻ A Phủ là nạn nhân của một cuộc xử kiện vô lí+ “cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn phải chịu một trăm bạc trắng” -> quan làng tham lam, nhũng nhiễu, hách dịch, xử kiện bất công, chèn ép dân lành.+ Bị đánh đập dã man, không có tiền trả, phải đi ở trừ nợ.=> Cảnh xử kiện là bức tranh đời sống đặc trưng của miền núi trước Cách mạng, thể hiện tội ác của giai cấp thống Là nạn nhân của cường Là nạn nhân của thần quyền tục cúng ma -> những hủ tục được bọn thống trị lợi dụng để điều khiển và áp bức tinh thần của người dân vô Sống và làm việc như trâu như ngựa+ công việc nguy hiểm, nặng nhọc+ bị đánh trói nhiều ngày vì vô ý làm mất một con bò-> Trở thành người ở gạt nợ cho nhà thống lí, A Phủ chịu số phận nô lệ bất hạnh, mất quyền con người.=> A Phủ là nhân vật điển hình cho số phận chung của những người lao động dưới ách áp bức, thống trị của bọn thực dân, phong kiến và sự ràng buộc của những hủ tục của người dân tộc Mèo.* Luận điểm 4 Sức phản kháng mãnh liệt ở A Bản tính gan góc từ nhỏ+ Cả nhà chết hết vì bệnh dịch+ Làng chết và đói nên người làng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng.+ A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng A Phủ không chịu khuất phục trước thế lực cường quyền+ Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ”vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”.-> Hành động dẫu chỉ là bộc phát nhưng thể hiện được tinh thần dũng cảm của A Khi được Mị cởi trói+ Dù rất đau đớn, “khụy xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực vì phải chịu cực hình, bị trói đứng và nhịn đói, nhưng anh vẫn “quật sức vùng lên chạy”+ Cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.=> A Phủ đại diện cho những con người lao động chịu áp bức luôn tiềm tàng sức sống bền bỉ, khát vọng tự do tìm hạnh phúc. Sức sống mãnh liệt ấy không thể bị dập tắt dù trong hoàn cảnh nào hay bởi bất cứ thế lực xấu xa đen tối nào.* Luận điểm 5 Giác ngộ và đi theo lý tưởng cách mạng- Tinh thần phản kháng là cơ sở để khi gặp A Châu - người cán bộ của Đảng, A Phủ nhanh chóng giác ngộ cách mạng, tham gia du kích, tích cực đấu tranh để giải phóng mình và giải phóng quê Quá trình giác ngộ cách mạng của A Phủ đi từ tự phát đến tự giác.=> Qua đó, ta nhận ra khả năng cách mạng tiềm tàng to lớn của đồng bào dân tộc Mèo ở Tây Bắc nói riêng và của nhân dân lao động nói Kết bài phân tích A Phủ- Khái quát giá trị của nhân vật A Phủ Thông qua nhân vật A Phủ, tác giả lên án tố cáo tội ác của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi lúc bấy giờ đã áp bức, bóc lột nhân dân Tây Bắc. Đồng thời phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao Nêu cảm nhận, đánh giá riêng của em về nhân vật cảm thông số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của nhân vật, thấy yêu thương, trân trọng số phận con người.>>> Tham khảo lại nội dung soạn bài Vợ chồng A Phủ để lấy thêm những luận cứ, dẫn chứng chi tiết bổ sung cho dàn ý thêm phong Tuyển chọn những bài văn mẫu hay phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A PhủDưới đây là một số bài văn phân tích nhân vật A Phủ hay được Đọc Tài Liệu tuyển chọn và giới thiệu đến các em tham khảo. Hi vọng sẽ giúp các em hình dung cụ thể cách làm cũng như có thêm vốn từ ngữ phong phú hơn để có một bài văn đạt điểm Phân tích nhân vật A Phủ bài số 1Tác phẩm để đời của nhà văn Tô Hoài và cũng là tác phẩm xuất sắc nhất trong tập "Truyện Tây Bắc" chính là truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ". Trong tác phẩm này, nhà văn đã thể hiện tài năng của mình thông qua cách miêu tả nhân vật A Phủ, tạo nên một điểm nhấn đáng chú ý. Nhà văn đã khéo léo bắt đầu câu chuyện từ thời điểm quan trọng trong cuộc đời của A Phủ, từ đó làm nổi bật tính cách của nhân vật. Trong tác phẩm, tác giả đã chọn hai chi tiết đặc trưng để tạo nên cá tính của A Phủ. Chi tiết thứ nhất là khi A Phủ bị đánh trong cuộc xử kiện "A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá." Chi tiết thứ hai là khi A Phủ được Mị cởi trói "A Phủ quật sức vùng lên chạy." Những chi tiết, hành động ấy đã thể hiện sức mạnh phản kháng của A Phủ và cũng là của người nông nô nghèo miền xuất hiện của A Phủ trong tác phẩm đã tạo ấn tượng mạnh đối với người đọc, đặc biệt là cảnh A Phủ đánh A Sử, con trai thống lí Pá Tra vì hắn dám phá đám chơi của A Phủ và bạn bè. Ban đầu ta nghĩ rằng A Phủ là một nhân vật có quyền thế, nhưng thật ra anh cũng không khác gì Mị, là một nông nô nghèo bị gia đình Pá Tra áp bức, bóc lột sức lao động và trở thành con ở, tôi đòi và nô lệ cho gia đình thống mười tuổi, A Phủ đã phải trải qua tuổi thơ đầy bất hạnh, mồ côi cả cha lẫn mẹ trong đợt dịch bệnh đậu mùa. A Phủ trở thành một đứa trẻ không cha không mẹ, không anh em, tứ cố vô thân, không có bất cứ tài sản gì. Hơn nữa, anh còn bị những người xấu bụng trong làng bán xuống vùng núi thấp chỉ để lấy ít thóc. Tuy nhiên, A Phủ không cam chịu và đã quyết định trốn lên núi cao, lang thang khắp nơi và làm công việc thuê mướn ở Hồng lên, A Phủ trở thành một chàng trai khỏe mạnh, chăm chỉ cày cuốc. Dù đã trải qua những khó khăn và gian truân từ nhỏ, A Phủ vẫn giữ được sự trong sáng, yêu đời, hồn nhiên, yêu cuộc sống và tin vào chính nghĩa. Anh vẫn mang theo sáo và khèn của mình đi khắp nơi, tìm kiếm người phận nghiệt ngã của A Phủ đâu chỉ có như vậy, A Phủ đã trở thành nông nô dưới sự thống trị của gia đình Pá Tra chỉ vì anh dám đánh A Sử, người đã làm hỏng cuộc chơi của A Phủ và bạn bè. Trước khi trở thành một nông nô cho gia đình nhà Pá Tra, A Phủ đã phải tham gia vào một cuộc xử kiện mà không phải lỗi của mình. Anh bị đánh đập dã man, tàn bạo. Khi đã trở thành nông nô cho gia đình thống lí, anh bị bóc lột sức lao động một cách tàn nhẫn ngoài ở ngoài gò và rừng. Đặc biệt, anh phải chịu đựng nỗi đau tinh thần hành hạ khi bị cúng trình ma, phải chịu những lời lăng mạ cay độc từ mọi người và từ cả Pá tin tưởng của Tô Hoài vào giá trị của con người một lần nữa được khẳng định. Sự tin tưởng ấy không chỉ được thể hiện qua nhân vật Mị mà còn được thể hiện qua sức mạnh phản kháng của nhân vật A Phủ. Để thể hiện điều đó, tác giả đã chọn lựa chi tiết trong cuộc xử kiện, khi A Phủ bị bọn trai làng xô đến đánh, "A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá". Nhiều người đọc có thể nghĩ rằng A Phủ nhát gan, nhưng thực tế không phải vậy. Nếu anh ta nhát gan, làm sao dám đánh A Sử, người mang vòng bạc quý trên cổ, một biểu tượng chỉ được phép đeo bởi con cái của gia đình quan trọng trong làng. Ngược lại, hình ảnh "im như tượng đá" chính là một hành động phản kháng, biểu hiện sự không tuân thủ, nén lại sự căm giận trong lòng, không nói ra, không bày tỏ và điều này chính là sức mạnh phản kháng tiềm ẩn bên trong con người A con sóng ngầm ngày một mạnh mẽ bên trong A Phủ được tạo nên bởi chính cá tính gan góc và mạnh mẽ đó của anh. Khi hoàn cảnh trở nên nghiệt ngã và đau khổ, sức phản kháng trong anh lại càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn. Nó được Tô Hoài thổi bùng lên trong lần miêu tả thứ hai về A Phủ. Sự kiện bắt đầu khi A Phủ vô tình để hổ vồ mất một con bò trong lúc mải săn nhím và đã bị cha con thống lí Pá Tra phát hiện, trói đứng vào cột mà không cho ăn uống. Tuy nhiên, nhờ tình thương và lòng đồng cảm của Mị, cô đã cởi trói và cứu giúp A Phủ. Trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc giữa sự sống và cái chết, một lần nữa tinh thần phản kháng trong A Phủ trỗi dậy và được tài năng của Tô Hoài thể hiện A Phủ bỗng ngã khuỵu xuống, không thể bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, A Phủ lại quật sức vùng lên và chạy. Ban đầu, hành động này có thể chỉ là ý nghĩ chạy trốn khỏi cái chết, nhưng sau đó nó đã trở thành một hành động đến với con đường giải phóng. Từ việc tìm đường đến nhận đường chính là ý thức làm người, tinh thần phản kháng, khát khao sống, khát khao tự do. Điều này trở thành cơ hội tốt để A Phủ hiến dâng cuộc đời mình cho sự nghiệp Cách mạng khi anh trở thành một du thuật miêu tả nhân vật đầy sắc sảo của Tô Hoài đã tạo ra một hình tượng nhân vật A Phủ đầy nam tính. Trong A Phủ, khát vọng tự do và công bằng được biểu hiện một cách âm thầm, mạnh mẽ, hồn nhiên và đơn giản. Tính cách của anh mang đậm phẩm chất tiêu biểu của một người đàn ông chân chính thuộc dân tộc vật A Phủ được miêu tả hai lần và ở hai thời điểm khác nhau đã gây ra ý kiến trái chiều. Có người cho rằng lần miêu tả đầu tiên A Phủ đã cam chịu, chấp nhận số phận, trong khi lần thứ hai mới thể hiện sức mạnh phản kháng thực sự. Quan điểm này không sai, vì thực tế là A Phủ đã để cho họ đánh, bởi vì sức mạnh của A Phủ không thể đối đầu với hàng trăm người mạnh hơn. Đó là sức mạnh áp bức của quyền lực đè nén lên một người nông dân nghèo khổ như A Phủ, người đã quen với khổ đau trong cuộc sống. Dưới chế độ thống trị của nhà thống lí Pá Tra, mọi nơi đều tương tự nhau. Điều đó chính là sự cam chịu của người nông dân miền núi cao, khi chưa có ánh sáng của Đảng, chưa có nhận thức, chưa biết về sự đoàn kết để tạo nên sức mạnh chống lại sự áp chính trong lần miêu tả thứ hai, hành động quật sức chạy của A Phủ không chỉ thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ của anh mà có thể coi là cơ hội để anh tiến gần hơn đến Cách mạng, để nhận thức và trở thành một du kích trong tương lai. Từ đó, chúng ta có thể thấy tài năng và sự hiểu biết sâu sắc về tâm lí con người của Tô Hoài. Ông thực sự là một nhà văn giàu kinh nghiệm khi nhìn thấy hai mặt trái ngược trong con người A Phủ, một con người vừa cam chịu số phận vừa mạnh mẽ, can trường và không chịu khuất phục. Điều này cũng thể hiện niềm tin vững chắc của nhà văn vào tâm hồn, sức sống và sự phản kháng quyết liệt của con người trên con đường tìm kiếm hạnh phúc và bản nghệ thuật miêu tả cuộc đời và tính cách của nhân vật A Phủ, Tô Hoài đã phơi bày sự bất công của giai cấp thống trị đại diện bởi cha con nhà thống lí Pá Tra, họ đã đẩy một con người hiền lành, chất phác như A Phủ vào tình cảnh bị cướp đoạt sức lao động và quyền làm người. Nhà văn đã viết về điều đó với lòng thương cảm đối với sự khổ đau và bất hạnh của họ, đồng tình với sự phản kháng quyết liệt để mở ra một con đường thoát khỏi bất công cho những người lao động nghèo trong miền núi. Như vậy là một lần nữa, tài năng nắm bắt cá tính con người và lòng nhân đạo vô bờ bến của nhà văn Tô Hoài đã được khẳng Phân tích nhân vật A Phủ bài số 2Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hóa những con Lan Viên đã thông qua những câu thơ trên để gợi lại cho độc giả hình ảnh một vùng đất Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ và bí ẩn. Nhưng khám phá Tây Bắc không chỉ dừng lại ở những hồn thơ của Chế Lan Viên. Ta đã từng gặp Tô Hoài với một tập truyện riêng viết về phong tục, thiên nhiên và con người Tây Bắc. Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" chính là một trong ba truyện ngắn đáng chú ý nhất của tập truyện Tây Bắc. Thành công của truyện ngắn này là nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, tiêu biểu là nhân vật A Hoài là một nhà văn vĩ đại trong dòng văn xuôi hiện đại của Việt Nam, với một số lượng tác phẩm đạt đến kỷ lục. Hầu hết các tác phẩm của Tô Hoài tập trung vào việc miêu tả sự thật trong cuộc sống hàng ngày với phong cách trần thuật hóm hỉnh, sống động và hấp dẫn. Việc sáng tác của ông thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống, văn hóa và sinh hoạt của người dân Tây Bắc. Trong tập truyện Tây Bắc, truyện "Vợ chồng A Phủ" là thành quả của chuyến đi thực tế của Tô Hoài vào năm 1952 khi ông đến vùng Tây Bắc. Truyện này nhằm phản ánh số phận của những người lao động miền núi Tây Bắc, từ những khổ đau trong cuộc sống đến hy vọng mới của tự trai A Phủ là người H'mông, sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh nghèo khó và bất hạnh. Từ khi còn nhỏ, A Phủ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ và bị người làng bắt bán cho người Thái ở khu vực thấp hơn. Tuy nhiên, A Phủ đã quyết định trốn trở lại vùng cao và sống cuộc sống lưu lạc khắp vùng Hồng Ngài. Đến khi trưởng thành, A Phủ vẫn sống trong đói nghèo, chỉ có đôi bàn tay trắng nên không thể lấy được sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng A Phủ lại có sức khỏe cường tráng, cần cù siêng năng, can đảm và tài ba. Anh biết đốt rừng, làm nương, cày cuốc, chăn bò, chăn ngựa, bẫy hổ, một thân một mình làm việc vất vả quanh năm. Đặc biệt, A Phủ luôn khao khát cuộc sống tự do và phóng khoáng. Ngay từ khi còn bé mới mười tuổi, A Phủ đã không chịu sống cùng người Thái dưới chân núi mà mong muốn trở lại vùng cao, sống một cuộc sống không bị gò bó, tự do như một con chim trong một chàng trai tràn đầy năng lượng, bản tính mạnh mẽ và kiên cường, A Phủ luôn khao khát một cuộc sống tự do, phóng khoáng. Nhưng anh bị giai cấp thống trị tàn ác trói chặt vào kiếp đời nô lệ đau khổ và tủi nhục. Nỗi khổ của A Phủ được tập trung mô tả trong hai cảnh chính là cảnh A Phủ bị phạt vạ vì đánh A Sử và cảnh A Phủ bị trói vì làm mất bò. Sự kiện phạt vạ xảy ra vì A Phủ dám đánh trả con quan chính là A Sử, anh bị bắt về nhà thống lý chịu sự trừng phạt. Phiên tòa đặc biệt tàn bạo và lạ lùng chưa từng có đã diễn ra. Công đường là nhà thống lí, quan tòa lại chính là thống lí Pá Tra. Đông đảo các thành phần tham gia phiên xử với đầy đủ chức sắc trong vùng, trang nghiêm và trọng thể, chỉ quan tâm đến việc hút thuốc phiện và thưởng thức mâm trai làng - những công cụ của thống lý - lại là nhân chứng. Trong khi đó, bị cáo A Phủ không được phép tự bào chữa, không được nghe luận tội mà chỉ im lặng chịu đòn. Phiên tòa diễn ra trong không khí nhốn nháo, náo loạn tiếng kể, tiếng chửi bới, đấm đá và tiếng rít của thuốc phiện, khói thuốc phiện bốc lên từ các cửa sổ. Sau khi kết thúc phiên xử, A Phủ bị buộc phải trả một khoản tiền phạt khổng lồ và phi lý. Ngoài việc trả tiền cho người đã đánh đập anh, anh còn phải trả toàn bộ tiền cho các quan, tiền cho người gọi quan trở về và toàn bộ số tiền đã dùng để mua thuốc phiện từ hôm qua đến hôm sau, thêm một con lợn để làng ăn cỗ. Tổng cộng, số tiền này lên tới một trăm đồng bạc trắng và Pá Tra biết rõ A Phủ không thể trả được số tiền này, vì vậy hắn đã cho A Phủ vay nợ và rồi anh phải làm trâu làm ngựa để trả nợ cho hắn suốt đảm bảo sợi dây trói chắc chắn hơn, Pá Tra gọi con ma về nhận mặt con nợ và toàn bộ số bạc mà A Phủ đã vay lại được hoàn nguyên vào túi của thống lý. Từ khoảnh khắc đó, cuộc sống nô lệ đầy đau khổ và tủi nhục của A Phủ bắt đầu. Anh phải cầm dao đi giết lợn để chuẩn bị làm cỗ cho những kẻ đã đánh đập, chửi bới và phạt vạ anh. Từ một chàng trai mạnh mẽ, dũng cảm và khao khát cuộc sống tự do, A Phủ đã trở thành một người sống kiếp đời như trâu ngựa cùng với đàn trâu và đàn ngựa thuộc sở hữu của nhà thống lý. Qua sự kiện phạt vạ này, nhà văn Tô Hoài đã lên án bản chất tham lam và tàn ác của giai cấp thống trị ở miền núi. Họ đã sử dụng mọi cách thức thâm độc để buộc những người lao động tự do trở thành nô lệ, để lợi dụng và áp bức họ tới cùng vì sơ ý làm mất một con bò của gia đình thống lý mà A Phủ phải chịu một hình phạt thảm khốc. Nỗi khổ nhục của A Phủ bắt đầu từ việc tự tay đào hố để chôn cột, sử dụng sợi dây mây để người khác trói mình. Chính A Sử là người đã thực hiện hành động tàn nhẫn đó, hắn trói đứng A Phủ bằng cuộn dây mây và thòng thêm hai thòng lòng vào cổ, làm cho anh không thể cựa quậy được và bỏ mặc anh trong đau đớn, đói rét cho tới chết, như một sự đền đáp cho mạng sống của con bò thuộc về gia đình thống lý. Qua đó, chúng ta càng hiểu rõ hơn về tội ác dã man và sự tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi. Họ coi sinh mạng con người không bằng sinh mạng của động vật, và chúng ta càng thấu hiểu thêm nỗi khổ của người lao động khi bị đẩy vào cuộc sống nô lệ. Họ đã bị tước đoạt hoàn toàn quyền sống, quyền con nhận cuộc sống nghèo khó từ khi còn là một cậu bé mười tuổi, A Phủ đã đi ở cho hết nhà này đến nhà khác để được sống tự do. Khi chứng kiến A Sử làm phiền và phá hỏng cuộc chơi của mình, A Phủ đã đánh hắn dù biết rằng hắn là con quan. Trước cảnh xử kiện ác độc của thống lí Pá Tra, A Phủ không khóc, không than van, chỉ quỳ yên như một pho tượng đá để chịu đòn. Trước thế lực cường quyền của ách thống trị, A Phủ bất lực phải chịu đựng, nhưng trong thái độ đó ẩn chứa sự thách thức và phản kháng ngầm. Trong đêm bị trói đứng, chàng trai ấy đã nhay đứt mấy vòng dây mây để tự giải thoát. Chỉ sau khi bị thêm hai vòng thòng lọng vào cổ, A Phủ mới thật sự bất tiết Mị cởi trói cho A Phủ là minh chứng rõ nhất cho sức mạnh của tinh thần phản kháng và lòng khao khát tự do. A Phủ đã ngã quỵ do kiệt sức, nhưng sau đó anh đã vùng lên và chạy thoát khỏi nhà thống lí. Có lẽ khát vọng sống, khát vọng tự do và tinh thần phản kháng trong tâm hồn chàng trai nô lệ ấy đã tạo ra một nguồn sức mạnh vô hạn, khiến A Phủ không chỉ tự cứu mình mà còn giúp Mị trốn thoát khỏi ách thống trị của Pá Tra, để cuối cùng có được tự do và kết thúc cuộc đời nô vật A Phủ đã được Tô Hoài xây dựng với bút pháp điển hình hóa, vừa cụ thể lại vừa khái quát. Cả hai nhân vật A Phủ và Mị đều có những đặc điểm phẩm chất số phận tương đồng, nhưng cách tạo hình nhân vật của nhà văn đã có sự thay đổi và sáng tạo để phù hợp với con người thực tế. Nhân vật A Phủ được khắc họa qua ngôn ngữ và hành động, những biểu hiện, lời nói và hành động ngắn gọn, quyết đoán và mạnh mẽ, điều này phù hợp với tính cách của A Phủ và đồng thời góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác ngắn Vợ chồng A Phủ khép lại với hình ảnh của A Phủ và Mị để lại trong lòng độc giả nhiều suy nghĩ sâu sắc. Nhà văn đã thành công rất lớn khi tái hiện được hình ảnh Mị và A Phủ với sức sống và sức phản kháng mạnh mẽ, bất chấp hoàn cảnh nào. Tác phẩm này sẽ sống mãi cùng thời gian và trở thành người bạn đồng hành với độc giả qua các thế Phân tích nhân vật A Phủ bài số 3"Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách khoa Toàn thư mà không viện sĩ nào, không học giả nào có thể sánh được" Trần Đăng Khoa. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình lay động lòng người. Ông đã viết thành công tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong những nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong tác phẩm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thắm thiết với người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác giả cho A Phủ xuất hiện đột ngột trong trận đánh nhau với A Sử - con trai thống lí, rồi bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ phải ở trừ nợ. Sau đó mới kể lai lịch của A Phủ. Cách giới thiệu này vừa gây chú ý cho người đọc vừa nhấn mạnh tính cách mạnh mẽ của A bé, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, không còn người thân thích trên đời, bị người làng bắt đem bán cho người Thái ở vùng thấp. Mới mười tuổi, A Phủ đã gan bướng, không thích ở cánh đồng thấp, trốn lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại giỏi cày và săn bò tót rất bạo”. Con gái trong làng nhiều người mê, họ kháo nhau “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”.Người ta đùa vậy thôi chứ A Phủ nghèo lắm. Không có cha mẹ, không có ruộng nương, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm sao A Phủ lấy nổi vợ. Nếu ở xã hội khác, A Phủ xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Thế mà A Phủ bị chà đạp, bị đối xử bất công. Nếu không được Mị giải thoát, chắc A Phủ đã chết trong tay cha con thống lí Pá tính gan góc của A Phủ đã bộc lộ từ năm 10 tuổi. Cá tính ấy lại được chính cuộc sống hoang dã núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê vất vả cực nhọc hun đúc nên một A Phủ có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Vừa xuất hiện, A Phủ đã lôi cuốn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dự dội “chạy vụt ra”, “vung tay ném”, “xộc tới nắm” “kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp…”. A Phủ là một người thẳng thắn, nóng tính, thật thà, chất phác. A Phủ đánh A Sử để trừng trị thói con quan ỷ thế làm càn. Anh bị người nhà thống lí bắt, đánh suốt đêm đến mức “mặt A Phủ sung lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu”, “hai đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù”.Dù vậy, A Phủ “chỉ im như cái tượng đá” thể hiện sự gan góc, dám làm dám chịu. Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ, anh vẫn là chàng trai của tự do. Dù phải quanh năm một mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa…”, việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng chẳng hề tính toán thiệt mải bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ thật thà vác về nửa con bò hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí “cho tôi mượn cây súng. Tôi đi lấy con hổ về”. Anh coi đó là một việc rất dễ dàng. Thống lí không cho, anh cãi lại cũng rất điềm nhiên. Anh không biết sợ cái uy của bất kì ai. Con hổ hay thống lí cũng thế thôi. Kể cả khi lặng lẽ đi lấy cọc và dây mây rồi đóng cọc để người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm việc ấy một cách thản nhiên. Là người mạnh mẽ, gan góc, A Phủ không sợ cả cái trói đứng, đói, khát trong cái lạnh cắt da, A Phủ không cam chịu, anh nhai đứt hai vòng dây trói, song không thoát. A Phủ khóc tuyệt vọng. Nước mắt của chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do phải cay đắng buông tay trước số phận nghiệt ngã làm rung động trái tim người đọc. Ta càng thấy rõ hơn bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến, chúa đất ở miền núi khi vật A Phủ đã được khắc họa thành công, sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố giúp nhà văn dựng được một hình tượng đặc sắc chỉ bằng mấy nét đơn sơ. Thông qua nhân vật A Phủ, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng đậm Phân tích nhân vật A Phủ bài số 4Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu của tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ, mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả "Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Và từ một hình ảnh đó, để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, tác giả làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho nhân vật A Phủ và Mị có duyên gặp Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh thật oái oăm. A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này, A Phủ bị bắt về nhà thống lí, bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này tác giả mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ, chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ, sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số phận, A Phủ lúc đó mới mười tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé, với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với nó chứ không để nó khiến anh có một số phận trớ sống tiềm tàng của một người đã sớm được bộc lộ, không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật, hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người. A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng, yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí vậy, chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt ở xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ bị người ta khinh thường và một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình, A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. "Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút". Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh xử kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ, ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng núi công việc. A Phủ có thể đốt rừng, cày nương, vỡ nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời thống lí, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình. Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường, anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ, nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhai đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát, đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay, anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ để cho Mị đi theo, anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả khi vượt khỏi nhà thống lí, A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm, là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp, không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ - nhân vật điển hình trong truyện. Cùng với A Phủ là Mị, dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.>>> Cùng với phân tích nhân vật A Phủ, các em có thể tham khảo thêm nội dung phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ để rút ra giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm thông qua hai nhân vật đại diện cho những con người lao động miền núi nghèo Phân tích nhân vật A Phủ bài số 5“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn nữa chính là khát vọng, là nghị lực sống mãnh liệt của họ. A Phủ là nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm về sự vượt lên chính mình. Tô Hoài đã rất thành công khi khắc họa nhân vật Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những tính cách, phẩm chất vừa khiến người ta xót thương vừa khiến người ta ngưỡng mộ Hoài đã để cho A Phủ xuất hiện trong lần cọ xát, đánh nhau với A Sử, sau đó bị bắt và bị đánh đập dã man. Tiếp theo đó tác giả ngược dòng kể về hoàn cảnh của A Phủ. A Phủ phải chịu đựng sự cơ cực, vất vả những năm tháng ấu thơ. Trận dịch đậu mùa khi A Phủ mười tuổi đã cướp đi gia đình, bố mẹ, anh chị em. Để lại một mình A Phủ bơ vơ, cù bất cù bơ. Tình cảnh ấy thật khiến người đọc xúc động. Đáng buồn hơn nữa có người đã đem A Phủ đi bán đổi lấy thóc. Nhưng với tính cách gan góc, ngang bướng của A Phủ thì nó không thể trói buộc được anh. A Phủ đã trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn từ mùa này sang mùa khác. Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện suốt bao nhiêu năm, A Phủ thành một chàng thanh niên gan dạ, dũng cảm đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau của cuộc đời A khi trưởng thành, A Phủ đã chứng tỏ mình là một người gan góc, liều lĩnh, không chịu khuất phục, luôn chiến đấu với bản thân để vươn đến những điều tốt đẹp nhất “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Chính nghị lực và sức khỏe của A Phủ đã khiến cho nhiều người yêu mến anh. Dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, “A phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Chính điều này đã tạo nên ấn tượng cho nhiều cô A Phủ lại là người không cha không mẹ, không tiền không bạc, không ruộng nương thì lấy vợ là chuyện quá xa xôi. Một người đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc nhưng cuối cùng vẫn cô độc như thế. Có lẽ hình ảnh A Phủ đánh A Sử khiến người đọc vừa dồn dập, vừa thương cảm cho con người này “A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Hành động này vừa chứng tỏ A Phủ rất khỏe mạnh, vừa không hề sợ bọn địa chủ phong kiến tàn bạo. Nhưng đây cũng chính là nguyên cớ tạo nên mối thù sâu sắc giữa người nông dân nghèo và tầng lớp địa chủ, quý Phủ đã bị thống lý Pá Tra đánh đập dã man, tàn bạo từ trưa đến đêm. Có thể nói nhà thống lý chính là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hủ tục, sự phân biệt giai cấp nặng nề, coi thường những người nông dân thấp cổ bé họng. Chúng coi A Phủ như một con vật, không hơn không kém. Bộ dạng A Phủ lúc đó thật thảm hại và đáng thương “A Phủ chỉ im lặng như tượng phật”. Sự im lặng đó chính là sự căm phẫn, uất ức đến tột độ nhưng cũng không thể làm điều gì vì hành động đó mà A Phủ đã phải làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lý. Xã hội bấy giờ dường như chỉ tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội mới hả hê, mới yên lòng. Đến đây chúng ta lại liên tưởng đến nhân vậy Mị, có lẽ A Phủ cũng như Mị, sống lay lắt héo hon trong ngôi nhà đầy oán hận đời của A Phủ cũng giống như Mị, từ đây sống hay chết cũng đều phó mặc cho nhà thống lí. A Phủ không có quyền lựa chọn cho mình con đường đi, không được chọn hạnh phúc cho mình. Suốt một đời này phải làm trâu làm ngựa cho nhà thống lí. Một sự thật nghiệt ngã đến đau lòng. Tô Hoài đã khiến người đọc không khỏi xúc động. Bằng ngôn ngữ đặc tả, tác giả đã tạo nên sự riêng biệt của A kịch này nối tiếp bi kịch khác, chỉ vì để hổ vồ mất bò mà thống lí đã bắt trói A Phủ và đánh đập dã man. Sự đau khổ và tuyệt vọng in hằn trong đôi mắt ấy, đôi mắt ám ảnh người đọc đến tận tâm can. Cái chết hiển hiện trong tâm trí A Phủ và A Phủ ý thức rất rõ được điều lẽ chính vì ý thức này đã làm nên sự vượt phá ở cuối tác phẩm khi Mị quyết định cởi trói và bỏ trốn cùng A Phủ. Có lẽ đây là đoạn văn khiến cho người đọc vừa hồi hộp, vừa xót xa vừa khâm phục. Con người ta khi bị bóc lột quá sức sẽ vùng lên đấu tranh để đi tìm con đường riêng. A Phủ thực sự đã làm được. Thoát khỏi nhà thống lí, A Phủ sẽ thành một người công dân có ích cho đất nước, đi theo tiếng gọi của cách Hoài đã rất thành công khi xây dựng nhân vật A Phủ, hình tượng điển hình của người nông dân trong xã hội phong kiến bị áp bức nhưng lại có khát khao sống mãnh Phân tích nhân vật A Phủ bài số 6 Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952. Đây là truyện hay nhất in trong tập "Truyện Tây Bắc'' của nhà văn Tô Hoài 1953 và đạt giải nhất của Hội văn hóa nghệ thuật 1954 - 1955. Nhà văn muốn làm hiển hiện lại cuộc sống của người dân tộc trung thực, chí tình quý trọng tình cảm cho dù gian nan đến đâu cũng mong đợi ngày mai tươi sáng, tiêu biểu là nhân vật A Phủ. Đây là nhân vật được nhà văn xây dựng với hình tượng thật đặc Phủ có số phận đặc biệt vì A Phủ mồ côi cả cha lẫn mẹ, không còn người thân thích, cả làng không mấy ai vượt qua được dịch bệnh đậu mùa anh em, bố mẹ của A Phủ chết. A Phủ đã vượt qua được sự sàng lọc nghiệt ngã của tự nhiên, A Phủ khỏe, sống sót. Có người làng đói bụng đem bắt A Phủ đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. Tuy nhiên, mới mười tuổi nhưng A Phủ rất ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, trốn lên núi cao và lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê lần nữa cho nhà này, nhà khác, vượt qua vô vàn cơ cực, thử A Phủ đã trưởng thành, trở thành một chàng trai khỏe mạnh, tháo vát, thông minh "Biết đúc lưỡi cày, đục cuốc lại cày giỏi và đi săn bò rất bạo. A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa". Vì vậy con gái có nhiều người con gái mê mẩn, có nhiều người đã nói "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu. "Tuy nhiên người ta cũng chỉ ao ước thế thôi vì A Phủ mồ côi, nghèo, không có ruộng, không có bạc, không có nhà, A Phủ không thể lấy nổi vợ vì A Phủ suốt ngày cày thuê cuốc mướn, tục lệ cưới xin phép rượu cũng to hơn phép văn khắc họa nhân vật thông qua nghệ thuật kể kết hợp với miêu tả sinh động, hấp dẫn được nhìn từ bên ngoài để tạo điểm nhấn về tính cách. Nhà văn đặc biệt chú ý đến những hành động của nhân vật để giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp của A Phủ. Nhà văn đặc biệt tô đậm tính cách gan góc, mạnh mẽ, cá tính ở nhân vật A Phủ, tính cách này bộc lộc từ năm lên mười tuổi với cuộc sống hoang dã của núi rừng và hình ảnh phải làm thuê, cuốc mướn, ở đợ đã hun đúc lên tính cách mạnh mẽ, táo bạo của A Phủ. Tính cách đó có lúc trở thành ngang tàng, sẵn sàng trừng trị kẻ là lúc A Phủ cùng với trai làng đi chơi, A Phủ đã đánh A Sử. Bọn người của nhà thống lí Pá Tra quyền lực bằng trời, không ai dám đụng tới, chúng có quyền muốn làm gì thì làm. Tuy nhiên A Phủ thì không sợ, A Phủ đánh A Sử là đánh kẻ phá đám, đánh kẻ gây sự, đó là hành động dũng cảm thể hiện sự gan dạ, dũng cảm. Nhà văn đã dùng ngôn ngữ kể sinh động, hấp dẫn tái hiện một trận đánh rất sôi động. "một người to lớn…" đánh tới tấp...". Nhà văn đã miêu tả liên tiếp những hành động mạnh, nhanh, táo bạo chạy vụt ra, vung tay, ném, xộc tốc, nắm vòng cổ, kéo dập đầu, xé vai áo, đánh tới tấp… để nhấn mạnh sức mạnh và tính cách của A chính vì hành động đó, A Phủ đã phải trả giá đắt, trở thành thân phận kẻ ở trừ nợ vô cùng cực khổ. A Phủ quanh năm một thân một mình nào là phá nương, cuốc rừng, săn bò tót, bắt bò, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm bôn ba, rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng; đang sức thanh niên A Phủ làm phăng phăng mọi việc, đang mùa đói, do mải mê bẫy nhím, để hổ ăn mất bò, A Phủ thản nhiên vác nửa con bò bị hổ ăn thịt dở về nói với thống lí "Tôi về lấy súng đi bắt con hổ". Đó là tính cách đặc biệt của A Phủ A Phủ cãi lại thống lí cũng rất điềm nhiên, không sợ cái uy của kẻ ác, cái uy của nhà giàu, con hổ hay thống lí thì cũng thế biệt, ngay cả việc A Phủ tự lấy cọc và dây mây, tự mình đóng cọc để người ta trói mình chết thế cho con vật vừa bị mất thì A Phủ cũng làm rất thản nhiên. Đó chính là thể hiện tính cách của A Phủ là một người mạnh mẽ, gan góc, không sợ cả cái chết. A Phủ được Mị cởi trói, đồng cảm, khát vọng tự do, khát vọng sống, đã thôi thúc A Phủ quật sức vùng lên để chạy, thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra. Sau đó A Phủ đến Phiềng Sa được A Chân giác ngộ trở thành đội viên du kích đi theo cách Vợ chồng A Phủ nhà văn viết về cuộc đời đau khổ, tủi cực, nhục nhã của người dân nghèo ở miền núi Tây Bắc. Những người dân nghèo từ Hồng Ngài đến Phiềng Sa, từ cuộc đời nô lệ, áp bức, khổ nhục, cho đến cuộc đời tự do, hạnh phúc, từ cuộc sống tăm tối đến cuộc sống của ánh sáng, niềm vui, từ thân phận trâu bò cho nhà giàu trở thành chiến sĩ du kích chiến đấu giải phóng quê hương, giải phóng cuộc đời mình. A Phủ đại diện cho những con người không chấp nhận sự áp bức, bóc lột đã vùng dậy phản kháng quyết liệt. Đó là quá trình chuyển biến biện chứng, logic từ tự phát đến tự giác dưới ánh sáng của cách khảo thêm một số dạng bài phân tích Vợ chồng A Phủ khácPhân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật MịPhân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuânTrên đây Đọc Tài Liệu đã giới thiệu đến các em mẫu dàn ý và một số bài văn mẫu hay phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Hi vọng bài viết đã mang lại những kiến thức hữu ích cho các em khi bắt tay vào viết bài văn phân tích nhân vật A Phủ. Chúc các em học tốt môn Văn khi tham khảo Văn mẫu 12 tại Thông qua hai nhân vật Mị và A Phủ, nêu lên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ là đề văn hay gặp trong chương trình Ngữ văn THPT. Để làm tốt đề văn này cũng như hiểu được dụng ý nghệ thuật của nhà văn trong việc khắc họa, phân tích nhân vật Mị, A Phủ, các em cần tham khảo danh sách các văn mẫu dưới đây. Bài viết liên quan Qua cuộc đời hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy làm rõ giá trị hiện thực nhân đạo Giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt Dàn ý giá trị hiện thực và nhân đạo trong bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ Phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của Truyện Kiều Mục Lục bài viết1. Bài văn mẫu số 12. Bài văn mẫu số 23. Bài văn mẫu số 33 Bài văn mẫu Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, nên lên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ1. Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, nên lên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ, mẫu số 1Vợ chồng A Phủ là một trong ba tập trong Truyện Tây Bắc in năm 1954 của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi vợ chồng trẻ người Mèo là Mị và A Phủ. Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thông lí. A Phủ vì dám đánh A Sử, con trai thống lí nên phải làm đày tớ đế trừ tiền phạt vạ. Cùng cảnh ngộ đau khổ, Mị đã cứu A Phủ. Hai người trốn khỏi nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng Sa, thành vợ, thành chồng, cùng nhau xây dựng cuộc đời mới. Được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị cùng A Phủ trở thành du kích bảo vệ khu giải là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Thông qua số phận Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước cách mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của thời thực dân phong kiến, bọn lang bạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm gió. Chúng nắm trong tay quyền lực của hành chính, tập tục và thần linh. Chúng có quyền sinh, quyền sát. Bởi thế tính mạng người dân bị coi như cỏ rác. Điển hình cho tầng lớp thống trị miền núi được miêu tả trong truyện là cha con tên thông lí Pá Tra với tính cách bạo ngược và lối sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người như bao tên chúa đất khác, thông lí Pá Tra có đủ mọi thủ đoạn hiểm độc trong việc áp bức, bóc lột dân chúng, đẩy họ vào cảnh bần cùng để rồi mặc nhiên trở thành nô lệ của hắn. Mị và A Phủ là nạn nhân trong bao nạn nhân khác của cha con vốn là một cô gái mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người , đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến. Cuộc sống, tuổi thanh xuân, hứa hẹn với cô bao điều tốt lành. Nhưng chi vì món nợ của cha mẹ cô vay thống lí từ ngày cưới cho đến lúc mẹ cô chết vẫn chưa trả được nên Mị phải đem thân làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí. Là người nhưng cô bị coi như một thứ đồ vật vô tri, vô giác đế tính ra tiền trừ vào số ngày Mị sống với cha con tên thông lí là chuỗi dài đau thương vất vả. Danh nghĩa là dâu nhà quan nhưng thực chất cô là đầy tớ không công, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Suốt ngày nai lưng ra làm quần quật, đêm đến cô lại phải thức hầu hạ thằng chồng tàn khổ, cực nhọc đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái Mèo xinh đẹp, hồn nhiên, đa tình, đa cảm thuở nào đã chết. Chi còn lại người đàn bà "lúc nào cũng vậy... cũng cúi mặt buồn rười rượi... ngồi ngay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa...". Mị âm thầm "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".Bài văn Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A PhủMị không những bị đọa đày về thể xác mà còn bị đè nén về tinh thần, Mị chán sống nhưng không được chết. Vì có chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn là người cha già càng đau khổ hơn. Cuộc đời Mị bị ràng cột bằng quyền lực, bị trói buộc bằng tập tục mê tín lâu đời của người dân miền đối xử bất công, tàn bạc của cha con tên thống lí làm cho Mị ngập chìm trong đau khổ triền miên. Cô lặng lẽ ra vào như một cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm tình. Cô chi còn biết làm bạn với ngọn lửa "trong những đêm đông dài và buồn". Thân xác Mị, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, "nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết kéo". Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời cô. Không có bạn bè cảm thương với nỗi khổ của mình, phải tìm đến ngọn lửa, coi nó là bạn. Khổ biết chừng nào!.Bao năm qua, Mị bị đọa đày trong nhà thông lí, mọi cảm xúc của cô hầu như tê liệt. Tinh thần phản kháng cũng vậy. Bây giờ Mị đã nghĩ rằng minh là con trâu, con ngựa của nhà giàu, chỉ biết ăn cỏ và đi làm thôi. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn được nghi, còn cô không lúc nào ngớt việc. Trước kia. cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón tự tử, giờ cô không nghĩ đến chuyện chết nữa vì quá quen với cái khổ rồi, vì cho rằng sống mà như chết. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Với Mị, cuộc sống chẳng còn nghĩa lí, không còn gợi cho cô ý thức gì về quá khứ, hiện tại, tương lai. Cái ác cùa bọn thống lí là đã giết chết phần tốt đẹp của con đời A Phủ, người con trai Mèo cũng không kém phần chua xót. Khỏe mạnh, ngang tàng, phóng khoáng, làm nương giỏi, săn thú tài, A Phủ được bao cô gái say mê, ao ước. Nhưng hạnh phúc không dến với chàng trai nghèo khổ mồ côi ấy. Vì dám đánh bại trăm đồng bạc trắng, phải đi ở trừ nợ làm ngựa cho nhà thống lí "Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi". Ngày này qua tháng khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt bầy bò đông máy chục con. Không may một con bò bị hổ ăn thịt. A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết, không được ăn, không được uống. Con người khi phách ngang tàng như A Phủ mà phổi lặng lẽ khóc cho thân phận tủi nhục cua mình "hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Chút ý thức phản kháng trong anh đã bị hiện thực phũ phàng dập bút nhà văn tỏ ra sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha con tên thống lí và lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn lý dịch, quan làng, thống quản... lợi dụng chuyện A Phủ đánh A Sử để kéo đến nhà thống lí xử kiện và ăn cỗ "suốt từ trưa cho đến hết đêm". Mấy chục người "hút thuốc phiện rào rào". Cứ mỗi đợt chúng hút xong A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để người nhà thống lí xô đến đánh "cứ như thế suốt chiều, suốt đêm, càng hút càng tỉnh, càng đánh càng chửi, càng hút...".Giá trị hiện thực của truyện ngoài việc tái hiện đoạn đời khô ải của những người nô lệ còn nói lên một sự thật xót xa người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị tê liệt tinh thần phản kháng, sẽ bị đầu độc bởi tâm lí nô lệ. Bạo lực cấu kết với thần quyền, với mê tín dị đoan làm cho họ không cất đầu dậy nổi. Nhưng trong cuộc đời, mọi cái đều có giới hạn. Có áp bức, có đấu tranh Mị và A Phủ cũng như bao người khác sẽ vùng lên tự giải phóng, giành quyền làm người tự do. Đoạn đời sau cùa vợ chồng A Phủ chứng minh qua luật muôn đời giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai cấp thông trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mãnh liệt. Có cảm thương số phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang sách gây xúc động mạnh mẽ như vậy. Nhưng nhà văn không để nhân vật của mình bị dồn vào thế tuyệt vọng. Điều kì diệu là dẫu trong cùng cực thế nào chăng nữa thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được sức sống con người. Cách nhìn nhận của Tô Hoài trong tác phẩm này hết sức nhân bản. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị đọa đày kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và "lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ,Mị muốn đi chơi...". Nhưng rồi thực tại đen tối đã cố tình dập tắt tiếng sáo thiết tha và hình ảnh mùa xuân rực rỡ. Phản ứng tự phát ban đẩu của Mị không thể giải phóng được cuộc đời có nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro than, có ngày sẽ bùng cháy dữ ấy đã đến với Mị trước cảnh A Phủ bị trói, "Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trời đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này... Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi, người kia việc gì mà phải chết thế...".Mị không cầm lòng được trước cảnh con người sắp bị hủy diệt. Mị động lòng thương, thương người, thương thân, Mị nhớ đến những khổ sở, hãi hung mà mình đã phải chịu đựng suốt mấy năm qua. Giọt nước mắt đau khổ của A Phủ như giọt nước làm tràn bình nước đã đầy. Nó thức tỉnh nỗi đau lắng chìm trong lòng Mị. Cảm thương số phận A Phủ, lòng căm thù cha con tên thống lí độc ác bùng lên, lấn át nỗi sợ hãi, dẫn Mị đến hành động táo bạo ngoài ý thức Cắt dây trói cứu A Phủ. Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của một quá trình dồn nén, bức xúc về mặt tinh thần, bây giờ đã đến lúc giải thoát. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt những dây trói vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục bấy lâu nay. Cô vụt chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được sự sống còn của minh "Ở đây thì chết mất". Mị đã chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, giải phóng mình ra khỏi nanh vuốt cha con tên thống con người cùng cảnh ngộ đã "lẳng lặng díu nhau lao chạy xuống núi" bỏ thật xa cái địa ngục giam cầm, đày đọa họ mấy năm trời. Từ trong chết, họ vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời. Chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi ách áp bức của thống lí Pá Tra. Vợ chồng A Phủ lại gặp phải kẻ thù mới không kém phần nguy hiểm là giặc Pháp. Chúng là lũ cướp nước đồng thời cướp cả mọi thứ và quyền tự do sống làm người, chẳng khác gì bọn cường hào ác bá miền núi. Chúng càn lên núi cao, đốt nhà, cướp của, bắt người. A Phủ bị chúng cướp mất đôi heo, bị đánh, bị đi phu khiêng đá xây đồng... A Phủ căm thù, chửi bới giặc Pháp và đã nhận thức được rằng mình là người tự do, của cải bị chúng cướp đi là mồ hôi, nước mắt cùa mình. Phải nhớ lấy để mà trả ở Phiềng Sa, vợ chồng A Phủ mới thực sự được làm người. Họ được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng, từ một chàng trai nghèo khổ, nô lệ, A Phủ đã trở thành một du kích dũng cảm, tự tin. Anh thực sự trở thành chỗ dựa tinh thần của Mị. Sống bên A Phủ, Mị dần dần hết lo sợ, cô vững tin vào cuộc sống mới vào kháng chiến. Được đứng lên đánh lại kẻ thù áp bức mình trong tư cách mình là con người, ý thức ấy mới thực sự có ý nghĩa nhân đạo. Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với Đảng, với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi ta. Qua tác phẩm, nhà văn gián tiếp khẳng định chỉ có cách mạng mới phóng con người ra khói ách áp bức, bất công, giúp con người vươn tới cuộc tự do, hạnh phúc, cuộc sống làm người. Tô Hoài khi tái hiện bức tranh hiện thực với những bản chất của nó không thể không miêu tả quá trình vận động, quy luật của cuộc sống. Đấy là giá trị nhân đạo sâu xa của tác việc miêu tả số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn đã sống lại trước mắt người đọc cả quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn quan lại, chúa đất phong kiến. Đồng thời khẳng định chỉ có sự vùng dậy của bản thân theo dẫn dắt của cách mạng giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Giá trị này giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu Hết bài 1 -Cùng với việc phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, các em học sinh lớp 12 cũng có thể tham khảo thêm các bài văn mẫu hay do biên soạn và tổng hợp như Qua cuộc đời hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy làm rõ giá trị hiện thực nhân đạo, Phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử trói đứng vào cột, Phân tích sức mạnh của tình thương yêu con người qua đoạn Mị cứu A Phủ và Tràng đối với cô vợ theo, Trình bày bước ngoặt cuộc đời nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Thêm một điều quan trọng nữa là, để giúp việc phân tích Vợ chồng A Phủ được dễ dàng hơn, các em nên tóm tắt Vợ chồng A Phủ rồi lần lượt triển khai các đoạn viết mở bài Vợ chồng A Phủ, thân bài Vợ chồng A Phủ, .... việc đi từ khái quát đến cụ thể như trên sẽ giúp các em hiểu sâu sắc hơn, thấm nhuần hơn tư tưởng mà Tô Hoài muốn truyền tải đến độc giả. 2. Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, nên lên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ, mẫu số 2Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đem đến cho văn nghệ sĩ nước ta một cuộc tái sinh nhiệm màu. Các nhà văn, nhà thơ đã đứng lên dưới ngọn cờ cách mạng, với ý thức công dân sâu sắc, tích cực sáng tác phục vụ xã hội mới. Tô Hoài là một trong những nhà văn hiện thực sớm đến với cuộc sống lớn của nhân dân. Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã cùng bộ đội tham gia chiến dịch Tây Bắc giải phóng đồng bào ở ba tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoàng Liên Sơn. Trước mắt Tô Hoài bây giờ là một thế giới mới với những phong cảnh mới, con người mới, vấn đề xã hội mới. Ngòi bút của ông vươn ra khỏi làng Nghĩa Đô bé nhỏ để hướng đến miêu tả, tái hiện một vùng đất hết sức phong phú và cũng hết sức kì lạ của đất nước vùng Tây Bắc. Và cũng như nhiều nhà văn, nhà thơ khác, Tô Hoài đã trăn trở "nhận đường" và rèn luyện cho mình một thế giới quan và nhân sinh mới, xác định một phương pháp sang tác mới phù hợp với thời đại. Kết quả của những chuyến đi và niềm trăn trở nhận đường ấy là tác phẩm Truyện Tây Bắc gồm ba truyện Cứu đất cứu mường, Mường giơn và Vợ chồng A Phủ, Truyện Tây Bắc chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo thông qua việc miêu tả cuộc đời và số phận của hai nhân vật trung tâm là Mị và A Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài kể về cuộc đời đầy gian truân và đau khổ của hai vợ chồng người Mèo là Mị và A Phủ. Họ vốn là những người nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra; Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ, A Phủ vì dám đánh bại con trai nhà thống lí nên cũng phải làm người ở để đền tội với cảnh ngộ tối tăm ấy, họ đã gặp gỡ, đồng cảm và giúp nhau thoát khỏi nhà Pá Tra tìm đến vùng Phiềng Sa. Tại đây họ đã trở thành vợ chồng. Giữa lúc bọn lính Pháp đến đánh phá và cướp bóc ở Phiềng Sa, cán bộ của Đảng đã đến để giúp đồng bào các dân tộc tự bảo vệ cuộc sống của mình. Mị và A Phủ gặp A Châu, một cán bộ của Đảng, kết làm anh em rồi thành đội viên du kích. Nhớ lại thời điểm sáng tác Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài viết "Câu chuyện Vợ chồng A Phủ của tôi đã xây dựng được bằng mắt thấy tai nghe và cảm nghĩ về những con người và sự việc ấy trong cuộc chiến đấu giải phóng quê hương của các dân tộc thiểu số anh em ở biên giới Tây Bắc của đất nước". Qua câu nói đó, chúng tôi đã nhận thấy giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đã được nhà văn Tô Hoài xây dựng một cách có ý trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ thể hiện trước hết ở việc trình bày chân thực cuộc sống đau thương, tăm tối đầy bi kịch của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến nặng nề và sự bóc lột của thực dân Pháp. Giá trị hiện thực của tác phẩm còn gắn liền với sự tố cáo, vạch trần tội ác của bọn phong kiến thống lí, thổ li, lang đạo ở vùng lên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ để thấy tấm lòng của Tô Hoài với số phận con ngườiHình tượng nhân vật Mị là tượng trưng cho cái đẹp bị vùi dập. Cô gái trẻ xinh đẹp như một bông hoa của núi rừng đó bị A Sử cướp về làm dâu. Trong ngôi nhà giống như một tù ngục đó, Mị suốt ngày "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", số phận của Mị chẳng khác nào số phận của kiếp ngựa trâu vì giá trị của con người không được xem trọng, con người chỉ như một cái máy để làm việc. Thậm chí, Tô Hoài viết ''con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm lẫn ngày". Lẽ ra trong cuộc sống bình thường những người con gái như Mị phải được vui chơi, đi dự hội hè, tìm thấy tình yêu và hạnh phúc cho mình. Nhưng ngược lại, đến ngày Tết, A Sử lại đi chơi với bạn trai, còn Mị thì bị trói đứng trong buồng chung nghịch cảnh với Mị là A Phủ, nhân vật trung tâm thứ hai của truyện. Nếu Mị là hình tượng tượng trưng cho cái đẹp bị vùi dập thì A Phủ tượng trưng cho sự sống, sức lao động và lòng khao khát tự do của con người bị kìm hãm. A Phủ chạy nhanh như con ngựa, biết đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc, cày bừa rất giỏi và săn bò tót rất thành thạo. Lẽ ra con người đó phải được tự do giữa núi rừng đế phát huy sức mạnh cùa mình. Nhưng chỉ vì A Phù bất binh phản ứng, đánh lại A Sử, kẻ đã phá vỡ cuộc vui ngày Tết, mà A Phủ đã bị bắt về làm kẻ nô lệ trong nhà thông lí, ở đây anh phải đi đốt rừng, săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm. Một lần để cho hổ ăn thịt mất một con bò mà A Phủ bị thống lí trói đứng suốt mấy ngày trong góc nhà. Hình tượng A Phủ thể hiện một cuộc sống bị trói buộc, tượng trưng cho sức lao động bị bóc lột và đè trị hiện thực của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không chỉ bộc lộ qua việc trình bày chân thực cuộc sống đầy bi kịch của nhân dân miền núi Tây Bắc nói chung, đồng bào dân tộc H'Mông nói riêng mà còn thể hiện qua việc khắc họa những bộ mặt tàn bạo của cha con thống lí Pá Tra và A Sử của bọn lí dịch, quan lại, thống quản. Đây là nguyên nhân trực tiếp gây nên nỗi khổ của những người dân thấp cổ, bé miệng như Mị và A Phủ. Bộ mặt tàn bạo của chúng không chỉ hiện ra qua những hành động đánh đập dã man đối với kẻ ăn người ở trong nhà mà còn qua những lời nguyền rủa rất thâm hiểm "đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi". Có lẽ đó không chỉ là lời nguyền rủa của một hai cá nhân mà còn là lời nguyền rủa của cả một chế độ xã hội. Bao giờ còn chế độ xã hội đó thì vẫn còn những kẻ ác như Pá Tra và những nạn nhân của hắn như Mị và A hội phong kiến Việt Nam vốn đã lạc hậu, nói về nguyên nhân của những bi kịch mà người dân miền núi phải chịu đựng, Tô Hoài cho rằng đứng đằng sau thế lực phong kiến tại chỗ là bóng dáng của quân đội xâm lược phương Tây tràn đến. Trong bức tranh hiện thực của tác phẩm Vợ chồng A Phủ hình ảnh giặc Pháp hiện lên như là chỗ dựa, là thế lực mà bọn phong kiến vùng cao sẵn sàng cấu kết để duy trì ách thống trị của chúng. Người dân Tây Bắc chỉ có thể sống được một cuộc đời ấm no, hạnh phúc khi này chấm dứt được cả hai thế lực trên đây. Vấn đề áp bức giai cấp gắn liền với vấn đề áp bức dân tộc là một nét căn bản tạo nên giá trị hiện thực của Vợ chồng A liền với giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ là giá trị nhân đạo xuất phát từ cái nhìn, tấm lòng, tình thương yêu, nỗi xúc động, của nhà văn Tô Hoài trước số phận cùa Mị và A Phủ trong truyện ngắn này. Nhà văn bày tỏ sự thông cảm với nỗi đau khổ của người phụ nữ bị gả bán như một thứ hàng hóa. Chỗ nào nhà văn miêu tả nỗi đau của Mị là ở chỗ đó ngòi bút của ông cũng run lên vì xúc động. Tô Hoài viết "Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng". Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể "Đời trước ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày, rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhờ thế Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau đứt từng mảnh thịt". Đọc đến đây ta nhớ lại câu thơ của Nguyễn Du "Đau đớn thay phận đàn bà".Đó là nỗi đau của thân xác, còn nỗi đau tinh thần? Trong hoàn cảnh bị trói buộc Mị nghĩ rằng minh đành ngồi trong một nhà tù chật hẹp nhìn qua một lỗ vuông mà trông đợi cho đến bao giờ chết mới thôi. Dù vậy, khát vọng làm người hạnh phúc không bao giờ lụi tàn trong lòng Mị. Nghe tiếng sáo thổi trong rừng, Mị tha thiết nhớ lại những ngày xuân tươi đẹp của mình và tràn trề một lòng ham sống. Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã không dửng dưng với khát vọng đó của trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ còn có thể tìm thấy qua việc nhà văn tái hiện quá trình thức tỉnh cách mạng của những người bị áp bức. Như trên đã nói, trong tác phẩm này, chủ đề giải phóng dân tộc gắn liền với chủ đề giải phóng giai cấp nông dân và giải phóng phụ nữ. Mị và A Phủ gặp nhau trong một hoàn cảnh thật éo le, họ là những số phận đang đứng bên bờ vực thẳm. Hai nhân vật ấy đã kháng cự lại cái chết, kháng cự lại số phận để giữ lại cuộc sống. Trong bước đường cùng quẫn, vẻ đẹp của Mị lại hiện ra không chỉ bằng mặt mà cả trong tâm hồn. Điều đó bộc lộ rõ nhất qua thái độ của Mị đối với A Phủ một thái độ vị tha, cùng gánh chịu khổ đau. Tình yêu của họ đã đến từ việc chia sẻ số phận chung đó. Chính Tô Hoài cũng nhận xét "cái biểu hiện cởi trói cho A Phủ chỉ xảy ra trong khoảnh khắc nhưng khoảnh khắc có ý nghĩa quyết định và tồn tại đời dời". Mị cởi trói cho A Phủ rồi tìm đến khu du kích của làng H'Mông hẻo lánh vùng Phiềng Sa. Được A Châu giác ngộ, họ tham gia đội du kích chống Pháp, trở thành những người tự tin vào sức mạnh của mình. Vợ chồng A Phủ đã từng đấu tranh tự phát vươn đến đấu tranh tự giác, từ những phản ứng có tính chất bản năng đến sự phản kháng có ý thức, nhất là khi nhận ra được nguyên nhân đau khổ của mình và lòng dạ của kẻ thù. Có thể nói, qua hình tượng Mị và A Phủ, Tô Hoài đã xây dựng được những nhân vật có tính cách biến đổi theo quá trình của cách trị Vợ chồng A Phủ không tách rời với đường lối cách mạng và chính sách dân tộc Đảng Cộng sản là giải phóng những người lao động bị áp bức bóc lột, giải phóng mọi sức sống và vẻ đẹp bị các thế lực đen tối kìm hãm, trói phẩm Vợ chồng A Phủ là một bước tiến trong việc nhận thức, khám phá hiện thực kháng chiến, đồng thời cũng là một bước tiến trong việc thể hiện chủ nghĩa nhân đạo theo nhân sinh quan cách mạng. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó được hòa quyện trong một chất thơ trong sáng, màu sắc dân tộc đậm đà và văn phong giàu tính tạo hình. Với Vợ chồng A Phù nói riêng, Truyện Tây Bắc nói chung, Tô Hoài đã góp phần đổi mới về đề tài miền núi, thực sự bước vào văn học với những hình ảnh phong phú, tươi đẹp và chân thực. Vợ chồng A Phủ tiên báo những thành tựu tương lai trong sáng tác về đề tài miền núi của một lớp nhà văn sung sức xuất hiện sau Cách mạng tháng tháng Tám như Nguyễn Ngọc, Nông Quốc Chấn, Ma Văn Kháng, Vi Hồng... 3. Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, nên lên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ, mẫu số 3Nếu như tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài mang một giọng hồn nhiên trong sáng thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ của ông mang lại màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ chất trữ tình thấm tác phẩm, nhà văn đã dựng nên một bức tranh hiện thực của hai cuộc đời Mị và A Phủ, những bức tranh đó cũng chứa chan một tấm lòng nhân đạo của Tô một cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng lại mang một kiếp sống nghèo của kẻ "thấp cổ bé họng". Cha mẹ cô không thể trả nổi món nợ nhà thống lí thế là món nợ ấy truyền sang Mị. Tên thống lí tàn bạo ấy lại muốn bắt Mị làm con "dâu gạt nợ". Mà quan đã muốn là trời muốn, cô Mị về làm dâu nhà quan mà trong lòng mang một mối uất ức không thể giãi bày. Tiếng làm dâu nhưng lại là một thứ nông nô không hơn không kém, cô mất tất cả quyền sống, quyền được xem là một con người. Ngày trước dẫu nghèo nhưng được tự do, yêu đời, giờ đây vẫn nghèo vẫn cực nhọc lại nhục nhã chịu kiếp sống nô lệ qua kiếp sống của Mị, nhà văn bộc lộ một tấm lòng thương người, chua xót cho số phận con người, và cũng qua đó Tô Hoài đã vạch trần cái bản chất bóc lột giai cấp. Người ta dùng cái thế lực và tiền bạc "cướp người đàn bà đem về trình ma", thế là người đàn bà cũng bị cái "ma" vô hình trói cả cuộc đời trong nhà ấy. Nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con, và nếu chồng lại chết, lại phải ở với người đàn ông khác vẫn ở trong nhà ấy. ... Phải suốt đời ở trong nhà đã khổ nhiều rồi, trong cái địa ngục trần gian ấy, lại càng khổ hơn khi phải chấp nhận mình là kiếp trâu kiếp ngựa. Cả những con người cứng rắn, có lẽ không khỏi động lòng khi đọc đến câu "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa"... Khổ mà đến "quen" rồi quả thật ý thức con người đã bị tê liệt, đã mất đi cái "yếu tố xã hội" để được xem là con người. Chuỗi ngày cực nhục đã cướp đi của Mị sức sống tài năng cướp đi những thất vọng tuổi trẻ những "lúc hồi hộp chờ đợi người yêu". Lúc nào và bao giờ cũng thế, công việc cứ giăng trải ra trước mặt Mị, cứ những công việc quen thuộc làm đi làm lại "Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp... Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế". Khổ quá, cái khổ cứ chực bóp nát cuộc đời Mị, thế sao Mị không tự tử chết đi cho rồi? Không được bởi "Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Mị đành trở lại nhà thống lí".Cảm nhận về giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ hay nhấtCuộc sống trong cái địa ngục khủng khiếp đã bào mòn đi trái tim yêu đời của Mị, giờ đây nó đã trở nên trơ lì, chai sạn. Mị chỉ còn biết vùi đầu vào công việc "lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa". Thế giới của Mị thu vào một "chiếc cửa sổ ô vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng". Ý thức đã hoàn toàn biến dạng, Mị nhìn ra cuộc đời bằng ô cửa sổ, mà lại chẳng biết gì ngoài ấy thì có phải Mị đã quên mình là con người! Rõ ràng Tô Hoài đã tuân thủ nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực một cách nghiêm ngặt hoàn cảnh đã tác động vào tính cách Mị. Vợ chồng A Phủ chính là một bản cáo trạng đanh thép kết án những bọn cường hào thống lí và Tô Hoài đã mở rộng tấm lòng mình để bao bọc, che chở, bênh vực cho những người phụ nữ miền núi chịu hai tầng bóc tranh hiện thực được hoàn chỉnh hơn với sự xuất hiện của A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh cường tráng, trung thực. Chỉ vì những cuộc ẩu đả thường tình mà A Phủ bị đưa ra xử kiện có phải là vô lí không? Nhưng vấn đề ở chỗ Người đúng là con dân còn kẻ sai là con quan, hơn nữa, quan lại là người xử kiện. Như thế chẳng biết "công lí" có còn ngự trị nơi quan đường? Chỉ biết rằng A Phủ đang là một con chim xoãi cánh trong bầu trời tự do bỗng chốc bị nhốt trong lồng, bị trở thành nô lệ. Dường như cuộc đời A Phủ có lặp lại ít nhiều những biến thái của cuộc đời Mị. Đó là số phận chung cho những người miền núi thời bấy đến tác phẩm, người ta nhắc đến tính hiện thực và giá trị nhân đạo. Hiện thực mà chỉ bằng tố cáo phê phán thì còn khiếm khuyết, "nhân đạo" mà chỉ có yêu và ghét thì chưa phải là nhân đạo. Nhà văn cần phải hiểu nhân vật và tìm ra con đường tất yếu mà nhân vật phải đi. Tính cách nhân vật phát triển theo hoàn cảnh và được Tô Hoài phân tích theo con đường phát triển của tâm lí nhân vật. Thiết nghĩ đây mới là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm. Nhân cách Mị bị tha hóa trong cái địa ngục trần gian là hợp lí, sống cho ra người thì không sống được muốn chết cũng ko chết được. Có phải Mị đã ở cái trạng thái "sống dở chết dở". Rồi Mị phải quen, phải chịu đựng, và trở nên chai lì như một cỗ máy. Liệu Mị có còn lối thoát? Nếu như có một hoàn cảnh đã làm tê liệt ý thức con người thì sẽ có một hoàn cảnh để vực dậy trong lòng họ một sức sống. Nghe như mơ hồ nhưng đó là sự thực. Dòng nước mắt của A Phủ chính là "hoàn cảnh" đã giúp Mị sống dậy. "Lúc ấy đã nhà đã ngủ yên Mị trở dậy thổi lửa bập bùng sáng lóe Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Mị bắt gặp dòng nước mắt ấy và nhớ về mình, Mị cũng phải trói đứng thế kia và Mị cũng khóc "nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được". Dòng nước mắt là sự đồng cảm giữa hai con người. Dòng nước mắt của A Phủ đã làm bỏng rát vết thương trong lòng Mị. Tất cả thôi thúc Mị cởi trói cho A Phủ và cả hai người "lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi". Họ đến lập nghiệp ở Phiềng Sa. Thế rồi chẳng bao lâu sau, cái đồn Tây, lại lù lù xuất hiện, cha con thống lí lại vào ở đó. Trước mắt hai người chỉ còn một sự lựa chọn trở về kiếp sống nô lệ hoặc chống kẻ thù. Cách mạng rồi sẽ đến với họ và họ sẽ trở thành người của cách phân biệt giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo là điều không phải dễ. Thực ra, cả hai hòa quyện vào nhau, đan xen vào nhau. Có ghét nhà văn mới tố cáo bọn thống lí Pá Tra, có thương cảm nhà văn mới viết được những câu văn đầy xúc động, có hiểu nhà văn mới đi sâu vào cuộc sống tâm lí con người. Và Tô Hoài có thong cảm với nhân vật lắm mới có thể xét đoán tinh tế cuộc sống tinh thần của Mị. Những ngày tháng đầu tiên ở nhà thống lí Mị cứ khóc có đến hàng tháng, thế rồi định ăn lá ngón để tự tử vì không chịu nhục. Nhưng vẫn cố sống, sống một cách gượng gạo vì chữ hiếu. Mị nghèo vật chất nhưng không nghèo tình thương, lòng Mị vẫn âm ỉ một khao khát sống khao khát được tự do. Nếu như nhà văn lạnh lùng theo chủ nghĩa hiện thực khách quan thì làm sao nhà văn nắm bắt được cái khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng vẫn "tồn tại đời đời" ấy. Rõ rang nhà văn Tô Hoài tuân theo chủ nghĩa hiện thực nhưng ông tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghịêt vẫn không thể vùi dập hoàn toàn nhân tính. Hoàn cảnh tác động tính cách nhưng không giết chết tính Hết -Bên cạnh việc phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ, để hiểu thêm về các bài học trong chương trình Ngữ văn lớp 12 kể về số phận của nhiều người trong xã hội như như phân tích tác phẩm Vợ nhặt, phân tích bài thơ Tây Tiến, Phân tích bài thơ Đàn ghi-ta của Lor-ca, phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh,... So sánh nhân vật Mị và Thị qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ Nhặt” Mị và Thị là những hình ảnh đại diện cho nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại xã hội xưa. Qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ Nhặt”, chúng ta đã có thêm những góc nhìn sâu sắc về số phận của người phụ nữ cũng như những vẻ đẹp tâm hồn tiềm ẩn bị vùi lấp trước bi kịch cuộc đời. So sánh nhân vật Mị và Thị Mở bài Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa qua so sánh nhân vật Mị và ThịThân bài so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt từ số phận đến tính cáchSự tương đồng về nỗi đau bị đẩy đến bước đường cùng trong so sánh nhân vật Mị và ThịVẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi so sánh Mị và Thị Mở bài Giới thiệu hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa qua so sánh nhân vật Mị và Thị Xuyên suốt nền văn học Việt, nét đẹp của người phụ nữ như một nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Từ cổ chí kim với hình ảnh nàng Kiều tài hoa cùng khát vọng sống mãnh liệt trước số phận bạc mệnh; đến một chị Dậu bị xã hội nửa phong kiến vùi dập đến túng quẫn giữa màn đêm không tìm thấy lối thoát. Số phận bi thảm đầy sự bất công, cay đắng tủi nhục ấy lại chẳng thể vùi lấp đi vẻ đẹp nơi tâm hồn ẩn chứa nơi trái tim họ. Vợ chồng A Phủ” với nhân vật Mị và “Vợ nhặt” với nhân vật Thị cũng là những người phụ nữ với nét đẹp tâm hồn tài hoa, không đầu hàng trước số phận như vậy. Dù hoàn cảnh bi thương khác nhau nhưng giữa những tầm thường cuộc đời, vẻ đẹp của họ vẫn được Tô Hoài và Kim Lân khắc họa sâu sắc, để lại những rung cảm khó có thể phai mờ trong lòng độc giả. Sự tương đồng về nỗi đau bị đẩy đến bước đường cùng trong so sánh nhân vật Mị và Thị Khi so sánh nhân vật Mị và Thị, ta nhận ra đây đều là đại diện cho những người phụ nữ ở tầng lớp thấp của xã hội lúc bấy giờ. Tuy “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” nhưng cuộc đời của họ đều là một tấn bi kịch, thân phận thấp cổ bé họng, số phận “bèo dạt mây trôi”, túng quẫn vẫy vùng trong tuyệt vọng. Nhân vật Mị – một đóa hoa vùng Tây Bắc hội tụ được những nét đẹp tâm hồn của người miền núi Đẹp người, đẹp nết, cần cù, hiếu thảo và rất mực tài hoa. Ấy vậy mà đóa hoa tuyệt sắc đó lại phải gánh chịu kiếp sống giam cầm, trở thành một “cô con dâu gạt nợ”. Dưới sự áp bức đầy cường quyền thần quyền cùng hủ tục đè nặng, Mị gần như trở nên tê liệt. Cô trở nên mất sự phản kháng, trở nên con cam phận “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Cô là một con người bằng xương bằng thịt nhưng lại chẳng thể tự quyết định số phận của mình. Vì cha mà Mị chẳng thể đành lòng mà tự vẫn, vì A Sử mà cô không thể đi chơi trong đêm tình mùa xuân. Danh nghĩa là con dâu cả nhưng thật ra lại là nô lệ mãn đời cho ngôi nhà ấy. Sự cam chịu đến thống khổ đã biến cô gái Mông sức sống mơn mởn và trở thành một con người lầm lũi, túng quẫn, héo hắt. Tuổi xuân của Mị đã bị giam cầm như chính thân xác của Mị. “Ở lâu trong cái khổ Mị quen với nó rồi” Cuộc đời Mị vẻn vẹn chỉ còn thu lại bằng chiếc cửa sổ “mờ mờ, trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Một xã hội hiện thân mà kẻ thống trị nắm giữ mọi quyền hành còn những người thấp hơn bị coi như cỏ rác. Không phải là kiếp sống giam cầm, mất tự do như Mị nhưng Thị trong “Vợ nhặt” lại phải lâm vào hoàn cảnh lay lắt giữa sự sống và cái chết, vật vờ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Vì cái đói cái túng quẫn đeo bám, Thị trở thành một con người không còn gì cả. Không có tên, cũng chẳng có gốc gác, cô “gầy vêu rách như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” không quá khứ, mất luôn cả lòng tự trọng. “Thị gầy xọp” “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” chỉ nhìn đập vào mắt người đọc “hai con mắt trũng hoáy”. Tất cả các chi tiết đó không khiến chúng ta bàng hoàng và liên tưởng đến một bóng ma vật vờ không có sức sống. Thị trải qua cuộc sống lê la, nay đây mai đó, chỉ sống qua ngày chứ chẳng còn tha thiết đến ngày mai. Vì vậy, cô nhanh chóng víu lấy nhân vật Tràng mà nào có cần nghĩ suy. Cái đói không chỉ vùi lấp sức sống vẻ ngoài của thị mà còn tàn tạ cả tính cách. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi nói chuyện. Cái đói khiến thị quên đi cả lòng tự trọng của một con người. Thấy cái ăn trước mặt, thì chẳng ngần ngại mà “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị rơi vào bi kịch theo không người ta về làm vợ chỉ để có cái ăn. Hoàn cảnh xô đẩy đã khiến tất cả bị che lấp, chẳng còn lòng tự trọng và vẻ đẹp nơi tâm hồn nữa. Xã hội khiến một người con gái tàn lụi như một cái xác không hồn. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi so sánh Mị và Thị Cùng cực là thế, đớn đau là thế nhưng ẩn sâu bên trong họ, khát vọng sống vẫn luôn âm ỉ cháy. Dù tưởng chừng đã ở đáy vực của sự tuyệt vọng, nhưng cả Thị và Mị lại luôn khát khao được sống, được tự do là chính mình, sống một cuộc đời đúng nghĩa chứ không phải chỉ là tồn tại. Khát vọng sống được thể hiện qua những cách khác nhau khi ta so sánh nhân vật mị và thị. Ngòi bút hiện thực của Tô Hoài và Kim Lân phác họa sâu sắc nỗi đau cuộc đời họ, nhưng chẳng thể làm mờ đi sức sống mãnh liệt trong họ. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt, âm ỉ cháy suốt mạch chuyện. Tựa như một cây cỏ dại, tuy mỏng manh, yếu ớt nhưng bền bỉ, quật cường. Lần thứ nhất, nó trỗi lên mạnh mẽ lúc Mị mới trở thành con dâu gạt nợ. Tủi cực, buồn bã dồn đọng, Mị định ăn lá ngón tự tử. Nàng ý thức được sự tự do, vận mệnh của bản thân mình đã bị tước đi và trao cho kẻ khác. Tìm đến cái chết lúc đó mặc dù theo nghĩa tiêu cực như là một cách chạy trốn, giải thoát Mị khỏi những ràng buộc và khổ đau. Nhưng đó có lẽ chính là cách phản kháng mạnh mẽ nhất Mị có thể làm được lúc bấy giờ, là sự khẳng định cho khát vọng sống tự do của Mị. Lần thứ hai, nó được thể hiện trong đêm tình mùa xuân. Niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi nhen nhóm cháy khi tiếng sáo của trai làng gọi bạn tình mỗi mùa xuân đến. Mị nhớ da diết những ngày tháng tươi đẹp trong quá khứ. Từ tâm trạng, Mị chuyển thành hành động Mị uống rượu. Mị lấy rượu uống “ừng ực từng bát một”, tưởng như uống những khao khao trong lòng, quên đi những căm hận, buồn khổ. Tác động cảm xúc và men rượu đã khiên Mị thoát khỏi sự vô cảm bấy lâu. “Phơi phới đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”, “Thắp sáng niềm tin, giã từ bóng tối” “trong lòng đột nhiên vui sướng! Mị trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. Thậm chí khi A Sử thản nhiên chà đạp ước mơ của Mị, trói nàng vào cột. Trong căn phòng tối như hũ nút, khát khao đó vẫn cháy “như không đang biết mình đang sợ bị trói, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”. Nỗi đau thể xác đã chẳng thể nào đè bẹp khát khao ấy. Tất cả những nhân tố ấy như nhen nhóm từng chút, từng chút một, để rồi khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, sức sống ấy đã bùng cháy quyết liệt, mạnh mẽ. Chính niềm đồng cảm giữa những con người cùng túng khổ đã lấn át tất cả, trong phút chốc làm tan biết cả nỗi sợ và cái chết rình rập, Mị cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động cởi trói cho A Phủ hay cũng chính là Mị cởi trói cho cuộc đời mình. Mị đứng trên bờ vực của sự sống và cái chết, giữa lựa chọn nhẫn nhịn và khao khát được sống một cuộc đời đúng nghĩa của một con người. Và niềm khát khao sống đã chiến thắng. Mị đã chọn kết thúc những thống khổ trong lòng, chọn kết thúc quãng đời đày ải, tối tăm trước đây để học cách bắt đầu một cuộc đời mới. Khi so sánh nhân vật mị và thị, ta thấy rất nhiều điểm tương đồng. Phía sau tình cảnh vất vưởng, nhân vật Thị vẫn âm ỉ khát vọng sống mãnh liệt. Thị sẵn sàng đồng ý theo Tràng làm vợ cũng chỉ là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Dù là đánh mất tôn nghiêm, tự trọng, nhưng đó là tất cả nỗ lực khát khao để có được miếng ăn, để được sống. Dẫu có rẻ mạt và tầm thường, chỉ với bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con là bán rẻ bản thân, nhưng để tồn tại thì còn ý chí nào mạnh mẽ, quật cường hơn thế? Thị nào có biết Tràng là người như thế nào? Xấu tốt ra sao? Thi đánh đổi cả đời mình vào một canh bạc. Lúc thị về đến nhà Tràng, chứng kiến “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, cô nàng bèn “nén một tiếng thở dài”. Tưởng chừng trong tiếng thở dài chỉ có sự ngao ngán, thất vọng, ấy thế nó còn chứa đựng bao lo lắng cho tương lai ngày mai. Mị trở nên trách nhiệm với mái ấm nhỏ của mình, Mị bắt đầu mơ, bắt đầu tin vào một cái kết lạc quan ở phía trước. Mà trên đời này có hy vọng nào mà chẳng đi cùng sợ hãi. À thì ra, dẫu Thị có thể hiện bao nhiêu chua chát, đanh đá, nàng vẫn là một người phụ nữ hiền hậu, đảm đang, biết lo toan, chăm chút cho mái ấm của mình. Không chỉ thế, thị còn thể hiện bao nhiêu nét đẹp gia giáo khi gặp bà cụ Tứ. Nàng trở nên e thẹn, dè dặt, chỉ dám “ngồi mớm” vào mép giường, hơn nữa còn rất ý tứ, cung kính trong chào hỏi với mẹ chồng. Đến Tràng cũng bất ngờ và “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Phải chăng tình thương giữa người với người thật sự có sức mạnh diệu kỳ cảm hóa con người thị? Trong bữa cơm, dẫu chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, nhưng Thị lại chẳng hề khó chịu, so đo. Nàng đã mang hơi ấm gia đình đến cho ngôi nhà, sưởi ấm tâm hồn của một Tràng cục mịch, sưởi ấm cả khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà “rạng rỡ hẳn lên”. Dẫu là những nhân duyên chắp vá và chẳng thể nào hoàn mỹ, nhưng tất cả những nỗ lực để sống, để tồn tại của Thị giúp thay đổi và tiếp thêm lửa cho gia đình nhỏ này. Kết bài so sánh nhân vật Mị và Thị thông qua hai tác phẩm So sánh nhân vật Mị và Thị, dù hoàn cảnh khác nhau, nỗi bi ai thống khổ khác nhau nhưng vẻ đẹp ẩn chứa bên trong trái tim người phụ nữ đều sáng lấp lánh. Một người con gái kiên cường phá bỏ xiềng xích giam hãm mất tự do để sống một cuộc đời mới hay một người vợ vứt đi cái tôi để mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tất cả đều thể hiện nội lực sinh tồn mạnh mẽ không gì dập tắt được. So sánh nhân vật mị và thị ta nhận ra Kim Lân và Tô Hoài đã tài tình khắc họa chân dung người phụ nữ trong xã hội mới với những phẩm chất tốt đẹp. Đó cũng chính là lời kêu gọi của cách mạng, của chủ nghĩa nhân đạo luôn tồn tại và cháy trong tim mỗi người phụ nữ Việt suốt hàng ngàn năm qua. Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 02/12/2021, 1520 T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group ... Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O... Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O... Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O N T H I N E T Tài Liệu Ôn Thi Group T A IL IE U O - Xem thêm -Xem thêm TTS mị và a PHỦ vợ CHỒNG a PHỦ ,

mị và a phủ