MẮT HỘT (TRACHOMA) VIÊM KẾT MẠC MỦ. CHẨN ĐOÁN : Viêm kết mạc mủ thường ở một hay hai mắt. Thường không có hạch trước tai. - Cần điều trị bằng kháng sinh toàn thân. - (Kháng PNC 7,4% ở Mỹ 1989). a. Ceftriaxone 1g/ngày tiêm TM (nếu không có loét ở giác mạc).
Danh sách trẻ em xịt mũi hot nhất hiện nay: (Đức HIền) (Nhà thuốc Đức Hiền) Lasam xịt mũi 70ml trẻ em màu đỏ - người lớn ( xanh) (Rê V..
HC VIN NễNG NGHIP VIT NAM KHOA TH Y Ô BỘ MƠN KÍ SINH TRÙNG ĐỀ TÀI: GIUN KẾT HẠT Ở LỢN Nhóm GVHD: Nguyễn Thị Hồng Chiên •DANH SÁCH THÀNH VIÊN VŨ ANH ĐIỆP BÀN VĂN ĐẠT NÔNG THỊ THÙY DƯƠNG NỘI DUNG Căn bệnh Dịch tễ Chẩn đốn Phịng điều trị Vịng đời Triệu chứng & Bệnh
Chúng tôi chuyên cung cấp các loại cáp thép chất lượng cao, Dây thép mạ kẽm làm lõi ACSR, Hạt nhựa nguyên sinh PE, PP, XLPE - Liên hệ hotline 0904073074. CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI VÀ SẢN XUẤT ĐỨC HÙNG.
Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Sở hữu trí tuệ An toàn bức xạ hạt nhân Hoạt Dù đã có những quy định về việc hạn chế sử dụng kháng sinh trong thủy sản, nhưng kháng sinh vẫn là biện pháp được sử dụng nhiều nhất ở Việt Nam để điều trị bệnh do vi khuẩn
Chào Bác sĩ! Cháu nhà em được 3 tháng. Cách đây mấy ngày cháu bú sữa mẹ được vắt ra để qua đêm trong tủ lạnh (có mùi giống lá hẹ rồi). Sau này cháu nghi là bị thiu, lúc đầu bé từ chối bú nhưng bị ép 1 lúc cũng bú hết 100ml. Ngay hôm sau bé bú kém thường xuyên bị ọc sữa, bú là ọc, ngủ dậy cũng cũng ọc.
Bệnh viêm da mủ nghỉ ngơi ttốt sơ sinh này bước đầu với đa số nhọt nước, nhọt mủ rồi thương tổn lớn dần với chế tạo ra thành mọi lốt loét đóng góp mài dày trong vòng vài ngày. Chốc loét có xu thế lành sau vài tuần, để lại sẹo loàn dung nhan tố. Viêm kẽ: Bệnh
hNlhN. Nguồn chủ đề U nấm là nhiễm trùng khu trú tiến triển, mạn tính, gây ra bởi nấm hoặc vi khuẩn, liên quan tới bàn chân, phần tận cùng của chi hoặc lưng. Các triệu chứng bao gồm điều chỉnh và hình thành các rãnh xoang. Chẩn đoán dựa trên lâm sàng, được xác nhận bằng cách kiểm tra dịch tiết và nuôi cấy bằng kính hiển vi. Điều trị bao gồm kháng sinh, phẫu thuật mở ổ tổn thương, và đôi khi cắt nấm chủ yếu xuất hiện ở các khu vực nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, bao gồm cả miền nam Hoa Kỳ. U nấm xuất hiện ở các vùng xích đạo của Châu Phi, Châu Mỹ Latinh và Châu Á được gọi là “vành đai u nấm”. U nấm do nấm còn được gọi là eumycetoma là loại phổ biến nhất ở châu Phi. U nấm do vi khuẩn đôi khi được gọi là actinomycetoma gây ra hầu hết các trường hợp ở Nam và Trung Mỹ và một số nước châu phải u nấm khi các vi sinh vật xâm nhập vào vị trí tổn thương xuyên thấu da trên chân trần hoặc ở đầu tận cùng của các chị hoặc lưng của người lao động mang rau hoặc đồ vật bẩn. Nam giới từ 20 đến 40 tuổi thường bị nhiễm, có lẽ là do hấn thương xảy ra khi làm việc ngoài trùng lan đến vùng tiếp xúc dưới da, tạo các khối u và hình thành nên nhiều rãnh chứa đầy các mầm đặc trưng của căn nguyên gây bệnh. Phản ứng của mô về mặt vi thể chủ yếu là hoại tử hoặc u hạt tùy thuộc vào tác nhân gây bệnh cụ thể. Khi nhiễm trùng tiến triển,bội nhiễm thêm vi khuẩn có thể xảy ra. Các triệu chứng và dấu hiệu của u nấm Các tổn thương ban đầu của u nấm có thể dạng mụn, dạng nốt cố định dưới da, dạng túi có màng giả hoặc áp xe dưới da vỡ tạo thành một lỗ rò trên bề mặt da. Xơ hóa xung quanh tổn thương sớm rất hay gặp. Đau ít hoặc không đau trừ khi có bội nhiẽm thêm vi trùng tiến triển chậm kéo dài hàng tháng hoặc nhiều năm, dần dần lan rộng và phá hủy các cơ tiếp xúc, dây chằng, cân cơ và xương. Không phổ biến toàn thân cũng như các triệu chứng và dấu hiệu gợi ý nhiễm trùng toàn thân. Cuối cùng, sự hao mòn cơ, biến dạng và phá hủy mô ngăn cản việc sử dụng các chi bị ảnh hưởng. Ở nhưng trường hợp bệnh tiến triển, đầu tận cùng các chi bị sưng phù gồ ghề, tạo thành một đám khối xơ nhiều hình thái. Nhiều rãnh, xoang và lỗ dò thông với nhau và tiết dịch liên tục với chất tiết đặc lẫn máu và những hạt đặc trưng của tổn thương màu đen hoặc trắng. Kiểm tra và nuôi cấy chất tiếtCác tác nhân gây bệnh có thể được xác định một cách tương đối bằng cách kiểm tra tổng quat và soi trực tiếp các hạt lấy từ dịch tiết, với hình dạng bệnh lý, kích thước không đều, màu sắc không đều, đường kính từ 0,5 đến 2 mm. Nghiền và nuôi cấy các hạt này cung cấp khả năng xác định chính xác. Bệnh phẩm dịch tiết có thể có mặt nhiều vi khuẩn và nấm, đó có thể là căn nguyên tiềm tàng gây bội nhiễm. Kháng sinh hoặc thuốc kháng nấmPhẫu thuật trong các trường hợp khó chữaĐiều trị u nấm có thể cần đến > 10 năm. Tử vong do bội nhiễm vi khuẩn và nhiễm khuẩn huyết nếu không điều trị cẩn thận. Việc điều trị tùy thuộc vào tác nhân gây bệnh và mức độ của nhiễm trùng do nấm gây ra, một số căn nguyên gây bệnh tiềm tàng ít nhất còn nhạy cảm một phần với amphotericin B, itraconazole hoặc ketoconazole không có ở Mỹ, nhưng một số kháng với tất cả các thuốc kháng nấm. Sự tái phát xảy ra sau khi ngừng điều trị bằng thuốc kháng nấm ở hầu hết bệnh nhân; nhiều bệnh nhân không cải thiện hoặc thậm chí diễn biến xấu đi trong quá trình điều trị, cho thấy bản chất khó chữa khi cần phải phẫu thuật. Có thể phải cắt lọc lặp đi lặp lại các mô bị bệnh, bao gồm cả xương. Có thể cần phải cắt cụt chi để ngăn ngừa nhiễm trùng nặng thứ phát có thể gây tử vong trong những trường hợp nặng. Sau đây là một nguồn thông tin bằng tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.
Terms in this set 30U hạt sinh mủHình ảnh bệnh lí gìU hạt sinh mủHình ảnh bệnh lí gìU hạt sinh mủHình ảnh bệnh lí gìU hạt sinh mủHình ảnh bệnh lí gìU hạt sinh mủHình ảnh bệnh lí gìU hạt sinh mủHình ảnh bệnh lí gìDịch xuất tơ huyết mủCấu trúc gì đậmBiểu mô lát tầng không sừng hóaCấu trúc gì nhạtTăng sinh mô liên kết mạch máuHiện tượng gì xanhMô đệm thấm nhập tế bào viêmHiện tượng gì vàng
U Ở MÓNG1. U LÀNH TÍNH Ở MÓNG2. U ÁC TÍNH Ở MÓNG Nail tumor 1. U LÀNH TÍNH Ở MÓNG U nhầy mucous cyst U nhầy thường gặp vùng da mặt lưng đốt ngón xa, phía trên nếp da gần gốc móng, ở người già, đặc biệt là ở phụ nữ. Biểu hiện lâm sàng là khối u chắc, giới hạn không rõ ràng, dạng vòm, màu da bình thường. Số lượng thường ít; chỉ ở một ngón. Khối u phát triển chậm. Tùy theo kích thước và vị trí của u nhầy mà nó có thể là nguyên nhân làm biến dạng móng, như tạo rãnh lõm dài ở bản móng và mầm móng, đội bản móng lên hoặc có những u quanh móng. Khoảng 30% các trường hợp u nhầy xuất hiện ở mầm móng và giường móng, gây sưng, tạo thành u ở nếp trên móng, làm tăng bề cong của móng và nhiễm màu tím ở sàn móng gây tình trạng giả ngón tay dùi trống. Mô bệnh học biểu hiện là hình ảnh giả u nhầy, với sự giải phóng thành phần gelatin và mucin trong túi cùng của móng. Khoảng 80% thương tổn có liên quan với khớp xa của ngón tay, có thể nhìn thấy sau khi tiêm nội khớp bằng dung dịch xanh methylen vô khuẩn. Điều trị chủ yếu bằng phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tổ chức u. Tuy nhiên, tổn thương có thể tái phát. U xơ ở móng U xơ ở móng biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau. U xơ sừng ngón mắc phải là loại u xơ thường gặp nhất. U xơ có thể xuất hiện từ nhỏ trong mô quanh móng và dạng điển hình của nó là hình nhánh tỏi. Nó cũng có thể xuất hiện ở vùng sâu, tụt vào đến rãnh gần, tạo ra khối u nhỏ dạng xúch xích. Nếu nguồn gốc của nó trong phần trung tâm của mầm móng, nó sẽ tăng trưởng về phần trong của bản móng. Ngược lại những u xơ sừng sinh ra từ giường móng sẽ biểu hiện bởi những nhú dài của móng, dưới vùng đó xuất hiện vùng giảm sản móng. Khối u của Koenen là đa u sợi của hệ móng, thường xuất phát từ nếp gần và nếp bên. Đó là những cục tròn hoặc nhú gai, gặp ở 1/3 số bệnh nhân bị u xơ của Bourneville. Khi số lượng của các u này rất nhiều, nó có thể phá hủy dần hệ móng. Đó có thể là dấu hiệu lâm sàng duy nhất của bệnh. Những thay đổi của bản móng sẽ là những lõm dài, lệch trục và bao phủ toàn bộ bản móng bởi những khối u. Khi nó xuất hiện ở dưới móng, ít hay nhiều, cũng có nguy cơ mắc u mầm móng. U xơ mầm móng hiếm gặp. Nó hình thành lên một cục ở mầm móng và nhú ở bản móng hoặc sự biến dạng kiểu tăng bề cong của móng. Trên mô học, phần chất nền của nó giống với chất nền trong u mầm móng. Khoảng 1/3 u xơ nhầy bề mặt đầu chi xuất phát ở hệ móng, đó là những tổn thương tăng trưởng chậm, gây biến dạng ngón, đặc biệt khi nó có nguồn gốc từ giường móng. U cuộn mạch glomus tumor Loại u này rất hiếm gặp, được biết đến rõ nhất là u dứơi móng. Nó xuất hiện ở đầu ngón hoặc ở mô dưới móng. Đặc trưng bởi đau dữ dội, theo nhịp mạch đập, có thể gây ra hoặc làm nặng hơn bởi chấn thương kín đáo hoặc lạnh. Để một cục nước đá vào ngón tay có thể khởi phát đau lan đến vận tại. Đau khi sờ bởi một vật mềm dấu hiệu Love giúp xác định vị trí của u, cái mà bình thường không nằm ở vị rí chính xác, khi đó sẽ nhìn thấy đốm đỏ xanh ở bản móng. Đôi khi phim chụp chỉ ra hình ảnh tiêu xương, nhưng phải trên chụp MRI chất lượng cao mới xác định chính xác vị trí của khối u. U xuất phát ừ xương, sụn Chồi xương Chồi xương thường xuất hiện ở vùng cạnh bên trong của ngón chân cái. Biểu hiện lâm sàng là những khối u cứng, đẩy bản móng lên. Chồi xương có thể xuất hiện do chấn thương lặp đi lại ở những người khiêu vũ cổ điển. Tuy nhiên, tổn thương cũng có thể xuất hiện ở các vùng của móng và làm lệch trục, loạn dưỡng móng gây ra viêm quanh móng hoặc móng rụt. Hiếm khi gặp ở hiện tượng chồi xương ở ngón tay. Cần phân biệt với can xương sau gãy ở ngay đốt cuối, giống như một lồi xương dưới móng. U xương sụn osteochondrome dưới móng U xương sụn biểu hiện lâm sàn giống với hiện tượng chồi xương. Triệu chứng cơ năng thường đau và thay đổi trên X quang giống như lồi xương. Ngay sự khác biệt trên mô bệnh học cũng rất ít, đội khi rất khó phân biệt. Hội chứng chồi xương di truyền Chồi xương di truyền có thể xuất hiện ở các đốt xa của các ngón tay. Tuy nhiên, hiện tượng này hiếm. Tiến triển giống như những thương tổn trong chồi xương mắc phải, lâu ngày có thể dẫn đến khả năng mất móng. Ngoài ra, có thể gặp hiện tượng xương ngừng phát triển, nhất là sau khi điều trị phẫu thuật tổn thương ở xương. U màng sụn U màng sụ là u thường gặp nhất trong những u xương ở bàn tay. Hiếm gặp ở đốt ngón xa. Tổn thương gây đau tăng dần. Sự phát triển chậm khối u có thể làm tăng kích thích của đốt xa với những thay đổi tương ứng ở ngón ngón dùi trống, viêm quanh móng, u dưới móng đẩy móng lên. U phát triển dẫn đến tình trạng mất xuóng và gãy xương bệnh lý. Hội chứng MAFUCCI Bệnh màng xương với nhiều u máu dứơi mô mềm, gây biến dạng trầm trọng của đốt xa dẫn đến những khối u và biến chứng loạn dưỡng móng tương ứng. U tế bào khổng lồ xương U tế bào khỏng lồ ở xương gây đau, có thể xâm nhập vào đốt xa, hình thành phát triển từ vùng màng xương, tạo ra khối u lớn gấp 2-3 lần đường kính ban đầu. Tiến triển lâu ngày có thể gây gãy xương bệnh lý. U nguyên bào sụn chondroblastome u dưới móng gây đau ở đốt xa. Ngón chân hoặc ngón tay sưng, có thể gây mất móng. Trên X quang biểu hiện khối u lan tỏa và calci hóa một phần ở đốt xa. Mô bệnh học cho phép chẩn đoán phân biệt u này với những thương tổn xương sụn khác. Một số u hiếm gặp – Qúa sản phẩm sinh của nếp bên móng ở ngón chân cái có thể chịu một u củ nếp bên ngay từ năm đầu. – Naevus biểu bì dạng dải và dạng hạt cơm làm thành những sẩn sùi dạng hạt cơm ở cạnh móng, đôi khi làm cho bề mặt bản móng sẩn sùi khi tổn thương lan đến mặt sâu của nếp trên móng. – U nhú dưới móng của Heller do sự tăng sừng dưới móng ở phần xa. Thương tổn thường đi kèm với dải đỏ dài theo trục xuốngg. Cần phân biệt với u ác tính dưới móng, đặc biệt là bệnh Bowen. – U rối loạn sừng dưới móng dạng hạt cơm tổn thương là nhú dài ở bản móng, kèm theo có thể có xuất huyết dưới móng hoặc dát đỏ dọc theo móng. Tổn thương dạng hạt cơm, cứng khu trú ở rãnh bên của ngón tạo thành nhú sừng. – Nang dưới móng hay gần bản móng xuất hiện tự nhiên hoặc sau chấn thương ở lớp biểu bì nang biểu bì, ở vùng mầm móng nang mầm móng, hoặc vùng giường móng nang onycholemmique. Nang dưới móng xuất hiện sau phẫu thuật móng để chèn ép đến xương làm mòn xương. – U tuyến mồ hôi porome eccrine xuất hiện ở dưới ngón hay ở đầu ngón. U ống tuyến mồ hôi dạng sụn syringome chondroid có thể làm biến dạng ngón chân cái, trên X quang có những tổn thương tiêu xương. – U mầm móng onychomatricome Bốn dấu hiệu lâm sàng có thể giúp cho chẩn đoán là 1 Dài dọc theo trục móng thường có màu vàng, bề ngang có thể khác nhau tùy thuộc vào kích thước khối u; 2 U thẫm màu dạng vùng gốc móng; 3 Thay đổi bề mặt móng, thường bản móng cong lên theo chiều ngang; 4 Khi phát triển u có thể xuất hiện dưới móng ở bờ tự do. – Bệnh xơ ngón ở trẻ nhỏ những u cứng hoặc có tính chất đàn hồi, nhẵn, tròn, hình vòm, màu đỏ, nằm ở mặt lưng hay mặt trục của ngón chân, ngón tay. Tuy nhiên, thường không gặp ở ngón tay, ngón chân cái. Bệnh xuất hiện từ nhỏ nhưng lại rất hiếm gặp ngay sau sinh. Bệnh thường gặp nhiều ở thanh niên hoặc ở tuổi trưởng thành, tiến triển tự nhiên, có thể giảm dần và ổn định. – Sẹo lồi ít gặp ở hệ thống. Hiện tượng này có thể xuất hiện sau khi đốt điện phá hủy mủn các tổn thương quanh móng và dứơi móng, nhất là ở những trường hợp có cơ dịa sẹo lồi. – U mạch hiếm gặp ở hệ móng, đặc biệt là u máu ở trẻ nhỏ. – Dị dạng tĩnh mạch nguồn gốc từ xương hoặc mô mềm dẫn đến phì đại vùng hoặc ngón tay dùi trống. – Dị dạng động-tĩnh mạch có thể là do mắc phải, biểu hiện là nhữung mảng xanh tím hoặc nâu, trên lâm sàng khối u gần giống với hình ảnh của sarcome kaposi. Siêu âm màu phát hiện tình trạng nối thông mạch. Rò động-tĩnh mạch thường là những nang xương phình dẫn đến nang rộng, nhanh, đau đốt xa ở người trẻ. U loạn sản phôi ngoại tiết dạng u mạch hamartome eccrine angiomateux khu trú dưới hoặc quanh móng đã được báo cáo. Tổn thương nâu đỏ, đau. Nó được cấu tạo nên từ tuyến ngoại tiết trong chất đệm giàu mạch máu. – U sừng mạch giới hạn angiokeratome circonscrit đôi khi gặp ở mặt lưng của ngón dưới dạng cục tím sẫm hoặc đen. Angioleiomymoe biểu hiện như là khối u cứng chắc ở cùng dưới móng hoặc móng vùng dưới móng. – Calci háo dưới móng đôi khi biểu hiện là cục dưới móng làm thiểu sản móng. Nút calci háo đôi khi xuất hiện từ nhỏ, phát triển chậm dưới dạng những cục chắc, trắng vàng, hơi sần sùi, ở bờ bên của ngón chân hoặc ngón tay. Chụp phim X quang phát hiện các khối tỷ trọng cao, do nhiều mảnh calci sát cạnh đốt xa dẫn đến sự gia tăng và biến dạng móng. – Các u hiếm gặp khác + U lympho dưới móng hoặc ở đầu ngón rất hiếm gặp. + U mỡ nằm ở dưới bản móng hoặc trong nếp móng có thể sẽ lan rộng gây ra giả ngón dùi trống của đốt xa đồng thời gây loạn dưỡng móng, đôi khi còn có sưng đau của đốt xa. + Amylosis biểu hiện sự tăng trưởng mạnh dạng u nhú bao phủ toàn bộ móng trong bệnh phù niêm trước xương chày. U nhú dưới móng là một dấu hiệu rất rõ của amylose hệ thống. + U xơ thần kinh rất hiếm gặp ở hệ móng. Nó thường đơn độc, một cục hoặc một khối giống như u xơ móng làm biến dạng bản móng dẫn đến biêủ hiện giả ngón dùi trống hay loạn dưỡng. U thần kinh neuromes thường xuất hiện sau chấn thương ở tất cả các cấu trúc của hệ móng, biểu hiện là u rất đau, nhất là khi va chạm hoặc biểu hiện là u nhú dưới móng khi u thần kinh nằm ở mầm móng hoặc giường móng. + U thần kinh pacinien của đốt xa sẽ làm hạn chế gấp ngón. perineuriome biểu hiện ở vùng dưới ngón bởi tình trạng giả ngón tay dùi trống ở một ngón hoặc dưới dạng cục đỏ, tròn, kích thước dạng chấm, giới hạn rõ trong vùng dưới móng xa. 2. U ÁC TÍNH Ở MÓNG Ung thư biểu mô tế bào đáy Đây là loại ung thư da hay gặp nhất, chiếm khoảng 75% các loại ung thư da. Bệnh thường gặp ở người trên 50 tuổi, biểu hiện là khối u nhỏ, ở vùng da hở, thâm nhiễm cứng, màu da bình thường hay có hiện tượng tăn sắc tố, có thể loét, dễ chảy máu. Ung thư tế bào đáy hiếm gặp nhất ở hệ móng. Đôi khi, nó bị che chắn bởi một tình trạng viêm quanh móng mạn tính, đau, thường có u hạt. Phần lớn các trường hợp ở ngón tay. Ung thư biểu mô tế bào vảy Là loại u tính xuất phát từ các tế bào sừng của thượng bì. Ung thư tế bà vảy chiếm khoảng 20% các loại ung thư da, đứng thứ hai sau ung thư tế bào đáy. Ngoài khả năng xâm lấn tại chỗ, các tế bào ung thư có thể di căn xa. Mức độ di căn tùy thuộc vào kích thước, độ dày và vị trí của thương tổn. Ung thư tế bào vảy cũng thường gặp ở hệ móng. Tổn thương đa dạng, xâm lấn, thường tiến triển hình thành các nút sừng, có thể loét ra và tiến triển đến u hạt sinh mủ. Ở giai đoạn đầu thường dễ bỏ sót. Keratoacanthoma KA ở đầu ngón Phát triển nhanh. Đây là u lành tính, đau, thường đơn độc, dạng đa u hiếm gặp. Đặc điểm lâm sàng điển hình mô tả như một nút sừng. Hiếm khi gây phù nề lan tỏa ở hệ móng. Đau có thể do ăn mòn đốt xương cuối. Xu hướng tự thoái triển rất ít xảy ra với keratoacanthoma da. Keratoacanthoma đầu xa ngón thường tiến triển theo chiều dọc trong khi keratoacanthoma ở da có xu hướng lan theo chiều ngang. Bệnh Bowen Bệnh Bowen được coi là ung thư tế bào vảy tại chỗ. Biểu hiện lâm sàng là vùng da hơi lồi cao, bờ khúc khuỷu, giới hạn không rõ ràng, trên có vảy da. Bệnh thường gặp ở những người bị nhiễm độc arsenic mạn tính, do vậy bệnh nhân thường có các biểu hiện khác kèm theo như dày sừng lòng bàn tay, bàn chân hay các u ác tính ở một số các cơ quan nội tạng. Tổn thương ở móng làm thay đổi hình dạng của móng, tăng sừng dưới móng, đôi khi giống như mụn cóc. Dạng giả u xơ sừng hiếm gặp hơn. Nhiều trường hợp biểu hiện lâm sàng là tình trạng tăng sắc tố. Do vậy, để chẩn đoán xác định cần làm xét nghiệm mô bệnh học đối với những trường hợp nghi ngờ. U hắc tố Thường bắt đầu bởi những đốm nhiễm sắc không rõ ràng hoặc melanochie dạng dải dài. Tuy nhiên 1/4 trường hợp u hắc tố lại không có sắc tố đặc trưng. Theo thời gian, chúng hình thành lên những cục có đặc tính của u hạt sinh mủ với bề mặt rỉ nước. Khi u hắc tố nằm ở bên cạnh, nó có thể giống như một móng thụt. Xét nghiệm mô học tất cả các khối có rớm máu là bắt buộc. U ác tính của tuyến mồ hôi ở hệ móng Đây là bệnh lý rất đặc biệt. Biểu hiện lâm sàng không đặc hiệu và chẩn đoán chủ yếu dựa vào mô bệnh học. Khối u này xuất hiện như một cục loét hoặc khối tăng nhạy cảm. Bệnh nhân thường đau khi đi lại. U ác tính khác ở móng Những sarcome hiếm gặp khác ở móng thường gây đau, phát triển kính đáo. Tùy theo từng loại mà có biểu hiện khác nhau. U ác tính khác Sarcome xơ của Darrier-Ferrand là ngoại lệ ở đốt xa. Tổn thương là cục tròn cứng, có tính chất đàn hồi, phát triển tương đồng với sự tăng trưởng của bản móng. Sarcome Kaposi thường gặp ở ngón chân. Dạng kinh điển là những khối u màu xanh hơi nâu ở bàn chân và ngón chân, phát triển dần dần bao phủ bàn móng. Trong hội chứng Kaposi ở BN HIV dương tính, khối u thường lan tỏa hơn. Tổn thương móng do ung thư di căn ở hệ móng và đầu chi. Thường có biể hiện đau vì phần lớn các trường hợp có xấm lấn vào xương. Giả ngón dùi trống ở một hoặc nhiều ngón với màu đỏ sẫm và viêm quanh móng đi kèm với loạn dưỡng móng là những dấu hiệu thường gặp. Cầm tìm các khối ung thư nguyên phát. Ung thư phế quản là u nguyên phát thường gặp nhất khoảng 50% trường hợp. Ngoài ra, nhiều khối u ở các cơ quan khác cũng có thể di căn đến móng vú, thận, đại tràng,… Tài liệu được biên soạn bởi Nguyễn Hữu Sáu
2 Bệnh u hạt nhiễm khuẩn là một u mạch máu lành tính phổ biến xảy ra ở mọi lứa tuổi. Cả da và niêm mạc đều có thể bị ảnh hưởng. Bệnh u hạt nhiễm khuẩn do sự tăng sinh phản ứng của các mao mạch. Tổn thương nhìn như một cái bướu đỏ bóng với bề mặt giống như quả mâm xôi hoặc thịt băm. Mặc dù lành tính, u hạt nhiễm khuẩn có thể gây khó chịu và chảy máu nhiều. Nguyên nhân Nguyên nhân gây bệnh hiện chưa được biết rõ. Các yếu tố sau đã được xác định có thể có vai trò trong sự phát triển của bệnh gồm • Chấn thương một số trường hợp phát triển tại vị trí của một sang chấn nhỏ gần đây, chẳng hạn như một vết chích kim đâm. • Nhiễm trùng vi khuẩn Staphylococcus aureus thường xuất hiện ở thương tổn. • Nội tiết tố bệnh chiếm tối đa 5% thai kỳ và đôi khi có liên quan đến biện pháp tránh thai đường uống. • Thuốc nhiều tổn thương đôi khi xảy ra ở bệnh nhân dùng retinoid đường uống acitretin hoặc isotretinoin hoặc thuốc ức chế protease. • Nhiễm virus có thể liên quan nhưng hiện chưa được chứng minh. Dấu hiệu và triệu chứng U hạt nhiễm khuẩn thường xuất hiện ban đầu dưới dạng đốm đỏ, nâu đỏ hoặc xanh đen và không đau. Thương tổn phát triển nhanh chóng trong vài ngày đến vài tuần, đạt đến kích thước 1-2 cm hiếm khi lên đến 5 cm, dễ chảy máu và có thể loét hình thành vảy tiết. Thường chỉ có một tổn thương duy nhất nhưng trong một số ít trường hợp có thể xuất hiện nhiều tổn thương. Các vị trí hay gặp là đầu, cổ, thân trên, bàn tay đặc biệt là ngón tay và bàn chân. Ở phụ nữ mang thai thường xảy ra trên niêm mạc môi hoặc bên trong miệng. Điều trị Bệnh u hạt nhiễm khuẩn có thể tự biến mất, đặc biệt là nếu liên quan đến việc mang thai hoặc do thuốc, sẽ hết khi ngưng thuốc. Một số phương pháp được sử dụng để loại bỏ u hạt • Phẫu thuật cắt bỏ • Nạo bằng curret và đốt điện • Laser • Cryotherapy loại bỏ tổn thương bằng áp nitơ lạnh • Kem Imiquimod đã được báo cáo là có hiệu quả, nhất là ở trẻ em. • Thí nghiệm cho thấy thuốc mỡ propranolol 1% tại chỗ tỏ ra hiệu quả khi được sử dụng sớm ở trẻ em bị u hạt nhiễm khuẩn. Tái phát sau khi điều trị thường hay gặp.
U hạt và viêm đa mạch được đặc trưng bởi viêm u hạt hoại tử, viêm mạch vừa và nhỏ, viêm cầu thận hoại tử, thường tạo thành hình liềm. Thường ảnh hưởng tới đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới và thận, nhưng cũng có thể ảnh hưởng tới bất kỳ cơ quan nào. Các triệu chứng khác nhau tùy thuộc vào các cơ quan và hệ thống bị bệnh. Bệnh nhân có thể có các triệu chứng của đường hô hấp trên và dưới như chảy máu mũi, xuất huyết, ho, sau đó là cao huyết áp, phù hoặc có các triệu chứng của các cơ quan bị tổn thương. Chẩn đoán thường đòi hỏi phải sinh thiết. Điều trị bằng corticosteroid kết hợp với một thuốc ức chế miễn dịch. Điều trị thường có thể đạt được lui bệnh nhưng hay tái hạt với viêm đa mạch GPA gặp ở khoảng 1/ người; thường gặp nhất ở người da trắng nhưng cũng có thể gặp ở các dân tộc thiểu số và ở bất kỳ độ tuổi nào. Tuổi khởi phát trung bình là 40 nhân của GPA chưa rõ, nhưng có vai trò của cơ chế miễn dịch. Hầu hết các bệnh nhân có bệnh tiến triển toàn thể có kháng thể kháng bào tương của bạch cầu đa nhân trung tính ANCA. Các u hạt điển hình bao gồm các tế bào biểu mô dạng mô bào và thường có các tế bào khổng lồ. Có mặt các tương bào, bạch cầu lympho, bạch cầu đa nhân trung tính và bạch cầu ái toan. Tình trạng viêm ảnh hưởng tới các mô và mạch máu; viêm mạch có thể là một phần nhỏ hoặc lớn của bệnh. Các ổ hoại tử nhỏ, thường có bạch cầu đa nhân trung tính các ổ vi áp xe xuất hiện sớm. Hoại tử nhỏ tiến triển thành ổ hoại tử lớn. Vùng trung tâm của hoại tử được gọi là hoại tử địa lý được bao quanh bởi các tế bào lympho, tương bào, đại thực bào và các tế bào khổng lồ. Xung quanh khu vực này là vùng tăng sinh của các tế bào xơ và được bao quanh bởi các mô mạn tính không đặc hiệu và hoại tử mô có thể xuất hiện ở mũi. Toàn bộ các triệu chứng mô bệnh học được biểu hiện rõ nhất ở phổi, nhưng các đặc điểm chẩn đoán không điển hình trên các mảnh sinh thiết nhỏ được thực hiện xuyên thành phế quản. Ở thận, tổn thương thường gặp nhất là viêm cầu thận cục bộ hình liềm ít miễn dịch với hoại tử và huyết khối tại các quai thận hoặc các ống thận lớn hơn. Các tổn thương mạch và u hạt lan tỏa ít gặp. Đường hô hấp trên Đau xoang, chảy nước mũi trong hoặc dịch mủ, có thể chảy máu mũi. Niêm mạc xuất hiện các hạt giống như đá cuội, dễ vỡ; các vết loét, vỏ đen dày và thủng vách mũi thường gặp. Viêm sụn mũi có thể gây sưng, đau và gãy gốc mũi mũi gãy. Bệnh nhân có thể có tiền sử viêm xoang tái phát đáp ứng không đầy đủ với nhiều loại kháng sinh và cần phẫu thuật xoang một hoặc nhiều lần trước khi được chẩn đoán. Có thể có nhiễm trùng thứ phát ví dụ, do Staphylococcus aureus. Hẹp dưới thanh môn gây các triệu chứng như đau thanh quản, khàn giọng, khó thở, khò khè, và thở rít có thể Viêm tai, giảm thính lực, chóng mặt và viêm sụn có thể gặp. Tai giữa, tai trong, và xương chũm thường bị ảnh Có thể đỏ và sưng lên. Viêm và tắc ống mũi lệ, viêm kết mạc, viêm củng mạc mắt, viêm màng bồ đào, hoặc viêm mạch võng mạc có thể xảy ra. Thâm nhiễm viêm trong khoang sau hốc mắt giả u hốc mắt có thể gây lồi mắt, chèn ép dây thần kinh thị và mù. Lan rộng tới các cơ quanh hốc mắt dẫn tới nhìn đôi. Nếu xuất hiện các triệu chứng mắt nguy hiểm, cần đánh giá và điều trị ngay lập tức tránh mù vĩnh hô hấp dưới Các biểu hiện hô hấp là phổ biến. Viêm phế quản lớn và các nhánh của nó có thể gây ran ngáy khu trú, viêm phổi sau tắc nghẽn và xẹp phổi. Tổn thương một hoặc nhiều nốt ở phổi, có thể có hoặc không có hang, các tổn thương thâm nhiễm vào nhu mô đôi khi gây ra các triệu chứng như đau ngực, khó thở và ho có đờm. Khó thở kèm theo tổn thương thâm nhiễm cả hai trường phổi, có thể có hoặc không có ho máu, có thể là dấu hiệu của xuất huyết phế nang và cần phải được đánh giá ngay lập Bệnh động mạch vành có thể gặp nhưng thống cơ xương khớp Bệnh nhân thường có biểu hiện đau cơ, đau các khớp hoặc viêm khớp không có tổn thương phá hủy Có thể xuất hiện các sẩn xuất huyết, các nốt dưới da đau, mụn sẩn, viêm mạch mạng xanh tím hoặc thần kinh Viêm mạch có thể gây ra bệnh lý thần kinh ngoại biên do thiếu máu cục bộ, tổn thương não hoặc lan rộng tình trạng viêm vào mô thần kinh từ các vị trí lân cận. Các tổn thương có nguồn gốc từ các xoang hoặc tai giữa có thể phát triển trực tiếp ra vùng sau hầu và nền sọ, dẫn tới bệnh lý thần kinh sọ, lồi mắt, đái tháo nhạt hoặc viêm màng thống tĩnh mạch Huyết khối tĩnh mạch sâu có thể xuất hiện ở chi dưới, đa số là trong trường hợp bệnh u hạt với viêm đa mạch hoạt cơ quan khác Đôi khi, xuất hiện khối viêm ở vú, thận, tuyến tiền liệt hoặc các cơ quan khác. Xét nghiệm định kỳ, bao gồm xét nghiệm nước tiểuXét nghiệm kháng thể kháng bào tương của bạch cầu đa nhân trung tính CT ngực và xoang mũiSinh thiết để chẩn đoán xác địnhCần nghĩ tới u hạt với viêm đa mạch ở những bệnh nhân có các triệu chứng và dấu hiệu đường hô hấp mạn tính, không giải thích được bao gồm cả viêm tai giữa ở người lớn, đặc biệt là khi có những biểu hiện ở các cơ quan khác, nhất là thận, cũng gợi ý chẩn đoán. Các xét nghiệm thông thường trong phòng thí nghiệm được thực hiện, nhưng xét nghiệm ANCA và sinh thiết chọn lọc các mô liên quan mang lại kết quả cụ thể nhất. Sinh thiết mô mũi hiếm khi đưa ra chẩn đoán xác xét nghiệm thường quy bao gồm tốc độ máu lắng, protein phản ứng C, công thức máu, công thức bạch cầu, albumin và tổng protein huyết thanh, creatinine huyết thanh, tổng phân tích nước tiểu, protein niệu 24 giờ và chụp X-quang ngực. CT mũi xoang có thể cho thấy niêm mạc xoang dày lên hoặc mờ, thủng vách ngăn mũi và tổn thương xương. Chụp CT ngực không có thuốc cản quang là cần thiết vì phim X-quang ngực thông thường có thể bỏ sót các tổn thương như các nốt, khối và/hoặc các tổn thương dạng hang gây ra do u hạt bạch cầu ái toan với viêm đa khớp. Hầu hết các bệnh nhân trong đợt bệnh tiến triển có tốc độ máu lắng và protein phản ứng C tăng, albumin và protein tổng trong huyết thanh giảm, thiếu máu, giảm tiểu cầu, bạch cầu giảm nhẹ hoặc vừa. Hồng cầu bất thường về hình thái, xuất hiện trụ hồng cầu trong nước tiểu là dấu hiệu chỉ điểm tổn thương cầu thận. Có thể có protein niệu. Có thể tăng creatinine huyết thanh. Xét nghiệm huyết thanh để phát hiện kháng thể kháng bào tương bạch cầu đa nhân trung tính ANCA, sau đó là các xét nghiệm ELISA để phát hiện các kháng thể đặc hiệu. Hầu hết bệnh nhân bệnh hoạt động có ANCA bào tương c-ANCA, và các kháng thể kháng proteinase-3 PR3 dương tính; những dấu hiệu này kết hợp với các dấu hiệu đặc trưng trên lâm sàng gợi ý số bệnh nhân có các bệnh lý khác kèm theo như viêm nội tâm mạc do vi khuẩn, lạm dụng cocaine, lupus ban đỏ hệ thống, bệnh do amip, lao, xét nghiệm ANCA dương tính. Do các xét nghiệm để chẩn đoán bệnh có khả năng bị dương tính giả trong cộng đồng và giá trị dự đoán dương tính khi xét nghiệm ANCA dương tính là khoảng 50%, do đó xét nghiệm ANCA chỉ nên chỉ định ở những bệnh nhân có nguy cơ trung bình hoặc cao bị GPA hoặc các bệnh lý viêm mạch liên quan tới ANCA khác ví dụ như những bệnh nhân chảy máu phế nang, viêm thận cầu thận hoặc bệnh lý đơn dây thần kinh đa ổ và các biểu hiện khác của viêm đa vi mạch hoặc GPA. Xét nghiệm ANCA dương tính không loại trừ được các tổn thương nhiễm trùng do vi khuẩn không điển hình và nấm; do đó với bệnh nhân ANCA dương tính và có tổn thương dạng hang ở phổi vẫn cần nội soi phế quản, xét nghiệm nuôi cấy và các xét nghiệm khác để loại trừ lao và nhiễm nấm. Không nên dùng xét nghiệm ANCA chuẩn độ để hướng dẫn điều trị tiếp theo. Trong thời gian lui bệnh, ANCA có thể tăng lên hoặc chuyển từ âm tính sang dương tính. Một số bệnh nhân không có triệu chứng tái phát; số khác có thể có các triệu chứng tái phát hoặc xấu đi ngay sau khi được làm xét nghiệm hoặc trong vài tuần, vài tháng hoặc vài năm tiếp làm sinh thiết để xác định chẩn đoán GPA. Các vị trí có triệu chứng bất thường trên lâm sàng nên được sinh thiết trước. Sinh thiết mô phổi tổn thương có khả năng tìm thấy các dấu hiệu điển hình nhất, mổ nội soi lồng ngực là phương pháp tiếp cận tốt nhất. Nuôi cấy mảnh sinh thiết phổi hoặc xoang để loại trừ nhiễm khuẩn. Sinh thiết thận thấy tổn thương viêm thận cầu thận hình liềm hoặc không có hình liềm thành ổ hoại tử ít miễn dịch gợi ý chẩn đoán. Sinh thiết nhiều vị trí khác nhau cũng có thể cung cấp các thông tin giải phẫu bệnh giúp định hướng điều trị như xơ hóa thận.Chẩn đoán phân biệt bao gồm các bệnh lý của mạch máu nhỏ và vừa khác. Nhiễm khuẩn, đặc biệt là những tổn thương do nấm phát triển chậm hoặc các vi khuẩn kháng axit, nên được loại trừ bằng cách nhuộm và nuôi cấy các mẫu bệnh phẩm. Tiên lượng phụ thuộc vào mức độ nặng và phạm vi của bệnh và ít nhất là vào tốc độ điều trị diễn ra như thế thuốc ức chế miễn dịch trong trường hợp bệnh nặng đã cải thiện đáng kể tiên lượng của bệnh. Nếu được điều trị, khoảng 80% bệnh nhân có thể đạt lui bệnh hoàn toàn, nhưng khoảng một nửa số đó sẽ tái phát, tái phát có thể xuất hiện trong khi đang điều trị duy trì lui bệnh hoặc sau khi kết thúc điều trị thường là sau nhiều năm. Bắt đầu lại với liều khởi đầu hoặc tăng liều điều trị thường có thể kiểm soát được bệnh. Tuy nhiên, 90% bệnh nhân có các bệnh lý khác kèm theo do hậu quả của bệnh và/hoặc do điều trị. Để đạt được lui bệnh trong trường hợp GPA de dọa tính mạng hoặc tổn thương cơ quan, sử dụng liều cao corticosteroid kết hợp với cyclophosphamide hoặc rituximab. Để đạt lui bệnh trong GPA ít nghiêm trọng, sử dụng corticosteroid kết hợp với methotrexate hoặc duy trì lui bệnh, sử dụng rituximab đơn độc hoặc thuốc khác như methotrexate, azathioprine, hoặc mycophenolate mofetil rituximab kết hợp với một hoặc các thuốc còn lại, đôi khi kết hợp với corticosteroid liều thấp, nếu bệnh nhân tái phát nhiều lần hoặc GPA khó kiểm soátGhép thận nếu cầnĐiều trị u hạt với viêm đa mạch phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh. Phối hợp nhiều chuyên khoa trong trường hợp tổn thương nhiều cơ quan, thường bao gồm một bác sĩ thấp khớp học, bác sĩ tai mũi họng, hô hấp và thận. Bệnh nhân có những biểu hiện nặng đe dọa tới tính mạng hoặc cơ quan như xuất huyết phế nang, viêm cầu thận tiến triển nhanh, bệnh lý đơn dây thần kinh đa ổ cấp tính cần phải nhập viện ngay lập tức để điều trị nhằm mục đích đạt lui bệnh. Những bệnh nhân này cần điều trị bằng corticosteroid liều cao và cyclophosphamide hoặc rituximab xem Gây cảm ứng để đạt lui bệnh Khởi đầu điều trị Viêm mạch là bệnh lý viêm các mạch máu, thường dẫn tới thiếu máu, hoại tử và tổn thương viêm ở các cơ quan. Viêm mạch có thể xuất hiện ở bất kỳ mạch máu nào - các động mạch, tiểu động mạch,... đọc thêm . Hiệu quả của rituximab và cyclophosphamide có vẻ tương tự nhau trong việc đạt được lui bệnh và duy trì lui bệnh 1 Tài liệu tham khảo về điều trị U hạt và viêm đa mạch được đặc trưng bởi viêm u hạt hoại tử, viêm mạch vừa và nhỏ, viêm cầu thận hoại tử, thường tạo thành hình liềm. Thường ảnh hưởng tới đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới... đọc thêm . Trao đổi huyết tương đã không được chứng minh là làm giảm tỷ lệ tử vong hoặc bệnh thận giai đoạn cuối 2 Tài liệu tham khảo về điều trị U hạt và viêm đa mạch được đặc trưng bởi viêm u hạt hoại tử, viêm mạch vừa và nhỏ, viêm cầu thận hoại tử, thường tạo thành hình liềm. Thường ảnh hưởng tới đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới... đọc thêm .Rituximab dường như đặc biệt hữu ích trong việc giảm nguy cơ tái phát. Trong một nghiên cứu trên bệnh nhân GPA và các bệnh viêm mạch liên quan với ANCA khác, các tổn thương tái phát xảy ra ở khoảng 5% bệnh nhân được điều trị với rituximab nhưng với những bệnh nhân được điều trị bằng azathioprine thì tỷ lệ này là 29% 3 Tài liệu tham khảo về điều trị U hạt và viêm đa mạch được đặc trưng bởi viêm u hạt hoại tử, viêm mạch vừa và nhỏ, viêm cầu thận hoại tử, thường tạo thành hình liềm. Thường ảnh hưởng tới đường hô hấp trên, đường hô hấp dưới... đọc thêm . Nên sử dụng rituximab đơn độc hay kết hợp với một loại thuốc khác, liều và thời gian sử dụng rituximab như thế nào thì vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu hồi cứu, tỷ lệ tái phát thấp hơn khi phối hợp rituximab với methotrexate, azathioprine hoặc mycophenolate mofetil hơn là sử dụng rituximab đơn độc. Liều tối ưu rituximab trong điều trị duy trì chưa được xác định. Sử dụng corticosteroid liều thấp thường được sử dụng để duy trì lui bệnh. Trường hợp bệnh ít nguy hiểm, corticosteroid và methotrexate được sử dụng để đạt được lui bệnh. Rituximab có thể được sử dụng thay cho methotrexate. Trường hợp có các biểu hiện trên đường hô hấp trên, rituximab có vẻ giúp duy trì lui bệnh tốt hơn cyclophosphamide, methotrexate hay liều corticosteroid tới liều thấp nhất có thể hoặc ngừng mũi xoang bằng nước muối, kết hợp hoặc không kết hợp với thuốc mỡ bôi mũi mupirocin 2%, giúp giảm các mảng bám và nhiễm khuẩn do tụ cầu vàng thứ trị hẹp đoạn dưới thanh môn là khó. Các thuốc ức chế miễn dịch toàn thân có thể không hiệu quả. Tiêm corticosteroid tác dụng kéo dài vào trong tổn thương, với tác dụng giãn nở nhẹ nhàng, tăng dần, làm tăng hiệu quả đáng kể và giảm tỷ lệ phải mở thông khí nhân cần được hướng dẫn về các dấu hiệu bệnh tái phát để có thể phát hiện sớm các dấu hiệu. Ghép thận đã được thực hiện thành công; nguy cơ tái phát sau ghép giảm so với điều trị lọc máu duy trì một phần có thể là do sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch để chống thải ghép. 1. Stone JH, Merkel PA, Spiera R, et al Rituximab versus cyclophosphamide for ANCA-associated vasculitis. N Engl J Med 363221–232, 2010. doi Walsh M, Merkel PA, Peh CA, et al Plasma exchange and glucocorticoids in severe ANCA-associated vasculitis. N Engl J Med 3827622-631, 2020. doi 3. Guillevin L, Pagnoux C, Karras A, et al Rituximab versus azathioprine for maintenance in ANCA-associated vasculitis. N Engl J Med 3711771–1780, 2014. doi Trong u hạt với viêm đa mạch, tổn thương viêm các mạch máu nhỏ và vừa có thể ở bất kỳ cơ quan nào, đặc biệt là thận gây viêm cầu thận, đường hô hấp trên và dưới với viêm hạt nhu mô hoại tử, thường nổi bật hơn so với viêm thể biểu hiện trên các cơ quan khác nhau và thường bao gồm các triệu chứng của đương hô hấp trên và dưới như chảy nước mũi tái phát hoặc chảy máu cam, ho sau đó là tăng huyết áp, phù do liên quan đến thận.Chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm kháng thể kháng bào tương bạch cầu đa nhân trung tính và sinh thường tái phát và điều trị có thể gây ra các biến chứng kèm lui bệnh bằng corticosteroid kết hợp với một thuốc ức chế miễn trì lui bệnh bằng methotrexate, azathioprine, hoặc rituximab và giảm liều corticosteroid.
u hạt sinh mủ